– Trong tháng Mười Một, cả nước có gần 11,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 21,3% so với tháng trước và giảm 22,6% so với cùng kỳ năm trước; có hơn 7,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 10,9% và tăng 17,4%; có 4.243 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 22,2% và giảm 5,9%; 7.550 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 39,2% và tăng 14,4%; có 1.910 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 3,9% và tăng 14,2%.
– Trong tháng Mười Một, cả nước có gần 11,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 21,3% so với tháng trước và giảm 22,6% so với cùng kỳ năm trước; có hơn 7,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 10,9% và tăng 17,4%; có 4.243 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 22,2% và giảm 5,9%; 7.550 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 39,2% và tăng 14,4%; có 1.910 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 3,9% và tăng 14,2%.
Năm 2023, kinh tế - xã hội thành phố diễn ra trong bối cảnh kinh tế trong nước đã có bước phục hồi nhờ các giải pháp đồng bộ như ban hành các cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cải cách các thủ tục hành chính, đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số… Tuy nhiên, do những khó khăn từ suy giảm kinh tế toàn cầu nên các khó khăn, thách thức còn rất lớn, nhất là thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, thiếu đơn hàng, giá xăng dầu, giá nhiều loại hàng hóa, nguyên, nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất, chi phí sản xuất, sinh hoạt, vận tải còn ở mức cao, áp lực cạnh tranh và sự gia tăng các rào cản kỹ thuật tại các thị trường xuất khẩu, tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh, việc làm và đời sống của người lao động.
Với nỗ lực đạt được cao nhất các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của năm 2023 và cả giai đoạn 2021-2025, ngay từ tháng đầu năm, Lãnh đạo Thành phố đã chỉ đạo quyết liệt công tác giải ngân vốn đầu tư công gắn với việc đẩy nhanh tiến độ các dự án, công trình quan trọng; nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút tốt nguồn vốn đầu tư; tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất kinh doanh; tăng cường kỷ cương thu, chi ngân sách; thực hiện tốt công tác an sinh xã hội. Nhờ đó, kinh tế - xã hội thành phố tiếp tục ổn định và phát triển, một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu có sự tăng trưởng cao so cùng kỳ, một số chỉ tiêu tuy tăng thấp hơn so với cùng kỳ nhưng vẫn ở mức cao và vẫn đứng trong tốp đầu của cả nước như chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đứng thứ 5; chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) đứng thứ 9; thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt kỷ lục, đứng thứ 2; thu nội địa đạt chỉ tiêu Hội đồng nhân dân giao và vượt cao so với chỉ tiêu Trung ương giao; là điểm sáng của cả nước trong giải ngân vốn đầu tư công; các hoạt động du lịch, dịch vụ phục hồi rõ nét; các chính sách an sinh xã hội được đảm bảo và phát huy hiệu quả. Kết quả chủ yếu các ngành, lĩnh vực trong năm 2023 như sau:
Tổng sản phẩm trên địa bàn thành phố năm 2023 ước tăng 10,34% so với cùng kỳ năm trước (kế hoạch tăng 12,7%-13%), đứng thứ 5 cả nước và thứ 2 vùng đồng bằng Sông Hồng. Trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,11%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 11,54%, đóng góp 6,39 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực dịch vụ tăng 10,02%, đóng góp 3,57 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 5,83%, đóng góp 0,34 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng ổn định, giá trị tăng thêm tăng 1,11%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Mặc dù diện tích canh tác nông nghiệp có xu hướng giảm nhưng việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ cao, các giống cây trồng mới cho năng suất và sản lượng cao vào sản xuất làm năng suất cây trồng tăng khá; chăn nuôi không xuất hiện ổ dịch bệnh lớn nhưng sức tái đàn của người dân không cao do giá thức ăn và con giống tăng khá; giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp tăng 0,62%, đóng góp 0,01 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Khai thác thủy sản tiếp tục là điểm sáng trong khu vực này, giá trị tăng thêm tăng 1,84%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm vào mức tăng chung;
Khu vực công nghiệp - xây dựng, do những khó khăn từ suy giảm kinh tế toàn cầu, mặc dù các tháng cuối năm sản xuất công nghiệp có nhiều khởi sắc nhưng vẫn chưa đạt mục tiêu kế hoạch đề ra; giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 11,82%, đóng góp 5,98 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung, trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực của tăng trưởng kinh tế với mức tăng 12,34%, đóng góp 5,88 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 2,32%, đóng góp 0,06 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
Thành phố đã tập trung khởi công, hoàn thiện nhiều dự án, công trình trọng điểm, đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng, xây dựng nhà ở xã hội, hoạt động xây dựng của các doanh nghiệp và dân cư duy trì được sự ổn định. Giá trị tăng thêm ngành xây dựng tăng 8,62%, đóng góp 0,41 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
Hoạt động thương mại, dịch vụ duy trì đà phục hồi tích cực, nhiều giải pháp hỗ trợ, xúc tiến thương mại, các chương trình quảng bá du lịch, kích cầu tiêu dùng được triển khai đã giúp khu vực dịch vụ đạt tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng chung trong bối cảnh sản xuất công nghiệp và thị trường xuất khẩu gặp nhiều khó khăn. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ tăng 10,02%, đóng góp 3,57 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung, trong đó một số ngành đóng góp nhiều vào tốc độ tăng chung: bán buôn, bán lẻ tăng 14,01%, đóng góp 0,78 điểm phần trăm; lưu trú và ăn uống tăng 6,07%, đóng góp 0,1 điểm phẩn trăm; vận tải kho bãi tăng 13,04%, đóng góp 2,11 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,93%, đóng góp 0,18 điểm phần trăm; hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 12,96%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm; giáo dục và đào tạo tăng 3,08%, đóng góp 1,86 điểm phần trăm.
Cơ cấu nền kinh tế năm 2023 trên địa bàn tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp. Cụ thể: khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm tỷ trọng 3,4%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 53,34%; khu vực dịch vụ chiếm 37,76%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,5%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
Năm 2023, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn thành phố tăng trưởng, phát triển ổn định. Cây trồng sinh trưởng, phát triển thuận lợi, dịch bệnh được kiểm soát, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng so với năm trước. Sản xuất thủy sản duy trì được mức tăng trưởng khá là điểm sáng trong tăng trưởng của ngành.
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn thành phố năm 2023 đạt 75.951,4 ha (giảm 1.202,7 ha), bằng 98,44% so với năm 2022. Diện tích canh tác cây trồng có xu hướng giảm trong những năm gần đây chủ yếu do thiếu lao động, hiệu quả kinh tế từ canh tác cây trồng nông nghiệp đem lại không cao, thiếu thị trường tiêu thụ cũng như đầu ra cho sản phẩm, do vậy đã hạn chế sức sản xuất trong dân và nhu cầu mở rộng diện tích gieo trồng.
Diện tích trồng lúa cả năm 2023 thực hiện 55.737 ha, bằng 98,05% so với cùng kỳ năm trước. Năng suất lúa cả năm đạt 64,52 tạ/ha, bằng 100,29% so với năm trước và sản lượng ước đạt 359,6 nghìn tấn.
Diện tích gieo trồng cây hàng năm khác cả năm 2023 ước đạt 20.214,4 ha, bằng 99,55% so với cùng kỳ năm trước.
Diện tích cây lâu năm trên địa bàn thành phố năm 2023 đạt 8.416 ha, bằng 100,32% so với cùng kỳ năm trước.
Cơ cấu các nhóm cây trồng giữ được sự ổn định so với năm trước: diện tích nhóm cây ăn quả đạt 6.745,7 ha, chiếm 80% tổng diện tích; cây lấy quả chứa dầu đạt 251,5 ha, chiếm 3%; nhóm cây gia vị, dược liệu đạt 60,4 ha; cây lâu năm khác đạt 1.248,8 ha, chiếm 15%.
Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng cả năm 2023 ước đạt 30,2 nghìn tấn, giảm 0,29% so với cùng kỳ; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 654,1 tấn, giảm 11,21%; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước đạt 928,7 tấn, giảm 8,32%; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 66,9 nghìn tấn, giảm 1,5%; sản lượng trứng gia cầm ước đạt 274,73 triệu quả, giảm 7,48%.
Ước tính cả năm 2023, sản lượng gỗ khai thác đạt được 1.156,6 m3, bằng 89,61% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 37.054,5 ste bằng 95,54% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 205 nghìn cây, bằng 107,89%.
Diện tích nuôi thủy sản năm 2023 ước đạt 11,69 nghìn ha, tăng 1,51% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: diện tích nuôi cá các loại đạt 8,08 nghìn ha, chiếm 69,12% cơ cấu, tôm các loại 3,06 nghìn ha, chiếm 26,18%, thủy sản khác đạt 0,55 nghìn ha, chiếm 4,7%.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản ước cả năm 2023 đạt 79.240,9 tấn, tăng 3,22% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 54.865,7 tấn, tăng 3,26%; tôm các loại đạt 7.155,2 tấn, tăng 3,96%, thủy sản khác đạt 17.220 tấn, tăng 2,79%.
Sản lượng khai thác thủy sản cả năm 2023 ước đạt 117.016,4 tấn, tăng 1,18% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 71.702 tấn, tăng 1,23%; tôm các loại đạt 9.232,6 tấn, tăng 0,61%; thủy sản khác đạt 36.081,8 tấn, tăng 1,22%.
Năm 2023, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tiếp tục vượt qua khó khăn thách thức và duy trì mức tăng khá so cùng kỳ, dù chưa đạt kế hoạch đề ra nhưng vẫn đứng trong tốp đầu các tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn của cả nước. Một số ngành sản xuất trọng điểm đóng góp lớn vào mức tăng chung như: sản xuất sản phẩm điện tử; sản xuất xe có động cơ; đóng tàu và cấu kiện nổi… Tính chung cả năm, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành ước tăng 13,16% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số phát triển sản xuất toàn ngành công nghiệp thành phố (IIP) năm 2023 ước tăng 13,16% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, các ngành kinh tế cấp 1 đều có tăng trưởng dương: ngành khai khoáng tăng 33,78%, đóng góp 0,07 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,40%, đóng góp 12,43 điểm phần trăm; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 7,89%, đóng góp 0,57 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 8,59%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong sản xuất công nghiệp, ngành công nghiệp chế biến chế tạo đóng vai trò là trụ đỡ, chiếm quyền số cao nhất (trên 90% giá trị tăng thêm), quyết định chủ yếu đến tốc độ tăng trưởng toàn ngành công nghiệp. Một số ngành công nghiệp có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ như: đóng tàu và cấu kiện nổi tăng 87,63%; sản xuất máy vi tính và thiết bị ngoại vi của máy vi tính tăng 84,04%; sản xuất đồ điện dân dụng tăng 75,12%; sản xuất xe có động cơ tăng 69,73%; sản xuất đồ chơi, trò chơi tăng 59,55%; sản xuất gỗ dán, gỗ lạng, ván ép tăng 53,76%; sản xuất bột giấy, giấy và bìa tăng 40,77%; sản xuất linh kiện điện tử tăng 37,28%;...
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cả năm 2023 ước tăng 10,86% so với cùng kỳ. Trong đó, một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao như: sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 90,17%; sản xuất xe có động cơ tăng 56,42%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 40,98%; ...
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tại thời điểm 31/12/2023 dự kiến giảm 8,83% so với tháng trước và tăng 6,48% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so cùng kỳ: sản xuất gỗ dán, gỗ lạng, ván ép tăng 349,76%; sản xuất săm, lốp cao su, đắp và tái chế lốp cao su tăng 219,34%; sản xuất bia tăng 150,40%;...
Số lao động làm việc trong doanh nghiệp công nghiệp ước tại thời điểm 01/12/2023 tăng 0,64% so với tháng 11/2023 và giảm 2,2% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó: lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 27,01%; lao động doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 9,07%; lao động doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,93%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2023 dự kiến tăng cao so với cùng kỳ năm trước, tập trung vào nhóm các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao, sản phẩm điện tử như: tủ lạnh gia đình sản xuất đạt 502,2 nghìn chiếc, tăng 528,97%; thiết bị ngoại vi của máy vi tính (chuột, bút quang, bi xoay) sản xuất đạt 20,8 triệu cái, tăng 252,58%; máy chơi game đạt 1,1 triệu cái, tăng 66,20%; ...
Một số sản phẩm chủ yếu giảm so với cùng kỳ: các loại ắc quy điện đạt 87,3 nghìn Kwh, giảm 75,13%; thuốc lá có đầu lọc đạt 78,2 triệu bao, giảm 38,61%; bột giặt và các chế phẩm dùng để tẩy rửa đạt 50,3 nghìn tấn, giảm 31,53%; máy in văn phòng đạt 1,3 triệu chiếc, giảm 25,80%; ...
Năm 2023, khu vực thương mại, dịch vụ là một trong những điểm sáng của kinh tế thành phố trong bối cảnh sản xuất công nghiệp và thị trường xuất khẩu gặp nhiều khó khăn. Các đơn vị sản xuất kinh doanh thương mại, dịch vụ tiếp tục khai thác hiệu quả sức mua của thị trường, nhiều giải pháp nhằm xúc tiến thương mại, kích cầu tiêu dùng, kích cầu du lịch được thành phố tích cực triển khai. Nhờ đó, một số ngành thương mại, dịch vụ trọng điểm đạt mức tăng trưởng vượt mục tiêu kế hoạch đề ra: tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2023 ước tăng 13,34% so với năm 2022; tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 7.949,1 nghìn lượt, tăng 13,56% so với cùng kỳ, doanh thu vận tải hành khách tăng gần 67% so cùng kỳ...
* Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 198.787 tỷ đồng, tăng 13,63% so với cùng kỳ năm trước, bằng 101,5% kế hoạch năm 2023 (kế hoạch đạt 195.855 tỷ đồng).
Chia theo ngành hoạt động: Doanh thu hoạt động bán lẻ 12 tháng năm 2023 ước đạt 164.453,8 tỷ đồng, tăng 14,24% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 2.273,3 tỷ đồng, tăng 13,80% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 21.194,8 tỷ đồng, tăng 12,99% so với cùng kỳ; doanh thu du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ ước đạt 251,1 tỷ đồng, tăng 41,94% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 10.614,0 tỷ đồng, tăng 5,51% so với cùng kỳ.
Tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ cả năm 2023 ước đạt gần 7,95 triệu lượt, tăng 13,56% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó khách quốc tế ước đạt 975,8 nghìn lượt, tăng 43,15% so với cùng kỳ.
Hoạt động vận tải trên địa bàn thành phố năm 2023 tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng, chất lượng phương tiện, chất lượng phục vụ, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, cung cấp dịch vụ được đẩy mạnh, đáp ứng tốt nhu cầu đi lại của người dân và vận chuyển hàng hóa, tiết kiệm chi phí xã hội.
Năm 2023, khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 293,9 triệu tấn, tăng 7,46%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 124.825,9 triệu tấn.km, tăng 7,41%; doanh thu ước đạt 57.508,6 tỷ đồng, tăng 9,94% so với năm trước; số lượt hành khách vận chuyển đạt 71,5 triệu lượt hành khách, tăng 64,96%; số lượt hành khách luân chuyển đạt 3.091,1 triệu lượt hành khách.km, tăng 72,51%; doanh thu ước đạt 3.766,3 tỷ đồng, tăng 66,73% so với năm trước.
* Sản lượng hàng hóa thông qua cảng
Hàng hóa thông qua cảng biển trên địa bàn thành phố cả năm 2023 ước đạt 170,08 triệu TTQ, tăng 1,19% so với cùng kỳ năm 2022. Doanh thu cảng biển 12 tháng năm 2023 ước đạt 6.700,5 tỷ đồng, tăng 1,11% so với cùng kỳ.
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố năm 2023 ước đạt 102.614,5 tỷ đồng, bằng 98,02% so với dự toán Trung ương giao và bằng 88,12% so với dự toán HĐND. Trong đó: thu nội địa ước đạt 42.500 tỷ đồng, bằng 135,66% so với dự toán Trung ương giao và bằng 100% dự toán HĐND; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 58.000 tỷ đồng, bằng 82,98% so với dự toán Trung ương giao và bằng 82,98% so với dự toán HĐND.
Tổng chi ngân sách địa phương năm 2023 ước đạt 36.897,4 tỷ đồng, bằng 130,51% dự toán Trung ương giao và bằng 93,28% so với dự toán HĐND thành phố giao; chi cân đối ngân sách địa phương ước đạt 34.808,2 tỷ đồng, bằng 129,79% so với dự toán Trung ương giao và bằng 92,88% dự toán HĐND thành phố.
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước thực hiện đến 31/12/2023 đạt 322.850 tỷ đồng, tăng 12,88% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2023 ước đạt 204.304 tỷ đồng, tăng 12,66% so với cùng kỳ năm trước.
Để duy trì động lực phục hồi, tạo đà cho tăng trưởng kinh tế, ngay từ những ngày đầu năm Lãnh đạo thành phố đã tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác giải ngân vốn đầu tư công, gắn với việc đẩy nhanh tiến độ các dự án, công trình quan trọng. Từ nguồn vốn này, một số công trình, dự án lớn trong các lĩnh vực giao thông, công nghiệp, đô thị đã được khởi công, tạo đòn bẩy thu hút các luồng đầu tư ngoài nhà nước và đầu tư FDI. Nhờ đó, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn năm 2023 đạt kết quả khá, dự kiến tăng 11,24% so với cùng kỳ, hoàn thành kế hoạch đề ra.
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn thành phố năm 2023 ước đạt 190.641,7 tỷ đồng, tăng 11,24% so với cùng kỳ, trong đó, khu vực vốn nhà nước có mức tăng cao nhất, tăng 31,36%, chiếm cơ cấu 14,90%; khu vực ngoài nhà nước tăng 8,46%, đây là khu vực có đóng góp nhiều nhất trong mức tăng trưởng chung với cơ cấu chiếm 50,97%; khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,15% so với cùng kỳ, chiếm cơ cấu 34,13%.
* Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Môi trường đầu tư kinh doanh của thành phố tiếp tục được cải thiện, hệ thống kết cấu hạ tầng ngày càng hoàn thiện, cùng với hiệu quả từ chuỗi các hoạt động xúc tiến đầu tư đã giúp thành phố đạt kỷ lục về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các quốc gia phát triển có dấu hiệu chững lại, các quốc gia trong khu vực cũng có nhiều chính sách mới để cạnh tranh đón dòng vốn đầu tư dịch chuyển. Tính đến ngày 20/12/2023, Hải Phòng xếp thứ hai cả nước với tổng số vốn thu hút là 3,4 tỷ USD, có 933 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư là 28,9 tỷ USD.
Cũng từ đầu năm đến 20/12/2023, có 34 dự án thu hồi/chấm dứt hoạt động, trong đó có 7 dự án nằm trong khu công nghiệp, 27 dự án ngoài khu công nghiệp.
Năm 2023, giá cả các mặt hàng hầu hết đều có xu hướng biến động tăng do ảnh hưởng của việc tăng lương cơ sở và giá xăng, dầu. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo thành phố, các cấp, các ngành tiếp tục triển khai tích cực các giải pháp đồng bộ để ổn định giá cả thị trường. Trong tháng 12/2023, giá xăng dầu bình quân giảm, nhu cầu tiêu thụ điện giảm là nguyên nhân làm cho Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2023 giảm 0,26% so với tháng trước; tăng 4,12% so với cùng kỳ năm trước.
Bình quân 12 tháng năm 2023, CPI tăng 3,66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 3,54% của năm 2022.
Giá vàng trong nước liên tục phá đỉnh cũ, lập đỉnh mới trong những ngày qua, khi giá vàng thế giới trên ngưỡng 2.000 USD/ounce (tương đương khoảng 58,6 triệu đồng/lượng). Chỉ số giá vàng tháng 12/2023 tăng 4,21% so với tháng trước, tăng 15,82% so với tháng 12/2022. Giá vàng bình quân tháng 12/2023 dao động ở mức 6,24 triệu đồng/chỉ.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2023 giảm 0,61% so với tháng trước, tăng 0,99% so với tháng 12/2022 và giảm 0,95% so với cùng tháng năm trước. Tỷ giá USD/VND bình quân tháng 12/2023 dao động ở mức 24.484 đồng/USD, giảm 150 đồng/USD. Bình quân 12 tháng năm 2023, chỉ số giá đô la Mỹ trong nước tăng 2,05%.
Trong năm 2023, đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội được chính quyền các cấp quan tâm, các chính sách an sinh xã hội được triển khai kịp thời, hiệu quả đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Hải Phòng là thành phố có số dân đông thứ bảy cả nước. Dân số trung bình của thành phố năm 2023 đạt 2,105 triệu người, trong đó tỷ lệ dân số nam và nữ khá cân bằng (nam giới chiếm 49,59%, nữ giới 50,41%). Dân số trung bình khu vực thành thị là 960,64 nghìn người, chiếm 45,64%, dân số trung bình khu vực nông thôn là 1.144,38 nghìn người, chiếm 54,36%.
Tình hình lao động việc làm của thành phố Hải Phòng năm 2023 có xu hướng tăng nhẹ về quy mô lực lượng lao động so với năm 2022. Lực lượng lao động 15 tuổi trở lên ước tính năm 2023 là 1.042,9 nghìn người, tăng 0,4% so với năm 2022. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc ước tính năm 2023 là 1.019,7 nghìn người, tăng 0,4% so với năm 2022.
c) Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Tổng số đối tượng tại các cơ sở trợ giúp xã hội năm 2023 là 748 người (bằng 98,29% so với cùng kỳ). Tập trung người lang thang trên địa bàn thành phố đạt 364 lượt người (giảm 18 lượt người so với cùng kỳ).
Trong năm 2023, tổ chức cai nghiện ma túy tập trung tại các cơ sở cai nghiện ma túy cho 2.245 lượt người, bằng 89,8% so với cùng kỳ năm trước, bằng 100% so với kế hoạch năm. Điều trị Methadone toàn thành phố (17 cơ sở) cho 3.840 người, bằng 103,4% so với cùng kỳ năm trước), bằng 121,2% so với kế hoạch năm.
d) Giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao
Công tác giáo dục: Năm 2023, Tổ chức thành công kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2023-2024 và kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023. Hoàn thành kỳ tuyển dụng giáo viên THPT năm 2023, bổ sung nhân lực đảm bảo triển khai các nhiệm vụ năm học tại các nhà trường. Triển khai hiệu quả các lớp đào tạo, bồi dưỡng năm 2023. Ngành Giáo dục và đào tạo Hải Phòng đạt nhiều thành tích cao trong các kỳ thi Olympic quốc tế, khu vực; 02 dự án giải Nhất Cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh trung học năm học 2022 – 2023; 01 học sinh đạt Á quân đường lên đỉnh Olympia...
Công tác y tế dự phòng: Trong năm 2023, thành phố tập trung phối hợp với các Sở, ngành, địa phương triển khai các chương trình y tế dân số năm 2023. Triển khai và chỉ đạo các quận/huyện thực hiện các hoạt động phòng, chống dịch bệnh đau mắt đỏ và bệnh theo mùa. Tăng cường công tác giám sát, phát hiện các trường hợp mắc, Sốt xuất huyết Dengue (SXHD), Tay chân miệng, Viêm não Nhật Bản, Thủy đậu...
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn thành phố không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm. Ủy ban nhân dân thành phố tiếp tục chỉ đạo Sở Y tế, các Sở, ngành, địa phương đơn vị liên quan tăng cường các biện pháp quản lý an toàn thực phẩm, chủ động phòng chống ngộ độc thực phẩm; chú trọng tại các khu du lịch, các bếp ăn tập thể tại các khu công nghiệp, khu kinh tế; triển khai các biện pháp phòng tránh ngộ độc thực phẩm và tổ chức ứng phó với ngộ độc thực phẩm hàng loạt khi xảy ra sự cố ngộ độc thực phẩm.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: Tại thời điểm báo cáo, số người nhiễm HIV đang còn sống là 6.384 trường hợp; Số người nhiễm HIV tử vong lũy tích là 5.446 trường hợp. Hiện tại điều trị ARV cho 5.461 người; điều trị PreP cho 1.383 người.
Công tác văn hóa - thể thao: Chuẩn bị tốt lực lượng huấn luyện viên, vận động viên tham gia các giải thể thao quốc gia, quốc tế và khu vực. Tổ chức Giải Cầu lông vô địch các Câu lạc bộ thành phố năm 2023; đăng cai tổ chức giải Đua thuyền Rowing và Canoeing Vô địch quốc gia năm 2023; đăng cai tổ chức thành công giải chạy VNExpress Marathon vừa diễn ra vào đầu tháng 12/2023 với khoảng 11 nghìn vận động viên tham dự.
Tính chung 12 tháng năm 2023, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 183 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 04 vụ tai nạn giao thông đường sắt và 04 vụ tai nạn giao thông đường thủy. Các vụ tai nạn giao thông làm chết 98 người và bị thương 136 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 126 vụ (tương ứng tăng 198,44%); số người chết tăng 47 người (tương ứng tăng 92,16%); số người bị thương tăng 136 người (tương ứng tăng 518,18%).
g) Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Trong cả năm 2023, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 119 vụ cháy, số người chết là 05 người và bị thương 06 người; nguyên nhân các vụ cháy chủ yếu do tình trạng bất cẩn trong cách sử dụng các thiết bị có nguy cơ cháy, nổ cao tại một số nhà dân và cơ quan, doanh nghiệp; một số vụ cháy thảm thực bì rừng gây thiệt hại ước tính là 2,72 ha; các vụ cháy khác đang trong quá trình điều tra, xác định giá trị thiệt hại về tài sản./.
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2023 ước tính tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước, chỉ cao hơn tốc độ tăng 3,21% của quý I/2020 trong giai đoạn 2011-2023[1]. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,52%, đóng góp 8,85% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 0,4%, làm giảm 4,76%; khu vực dịch vụ tăng 6,79%, đóng góp 95,91%.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp quý I/2023 tăng 2,43% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,22 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,66% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,68%, đóng góp 0,06 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý I/2023 giảm 0,82% so với cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023[2], làm giảm 0,28 điểm phần trăm trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,37%, làm giảm 0,1 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 5,6% (sản lượng khai thác than giảm 0,5% và dầu mỏ thô khai thác giảm 6%), làm giảm 0,2 điểm phần trăm. Riêng ngành xây dựng tăng 1,95%, chỉ cao hơn tốc độ tăng 0,28% và 1,41% của cùng kỳ năm 2011 và 2012 trong giai đoạn 2011-2023, đóng góp 0,12 điểm phần trăm.
Khu vực dịch vụ trong quý I/2023 thể hiện rõ sự phục hồi[3] nhờ hiệu quả của các chính sách kích cầu tiêu dùng nội địa, chính sách mở cửa nền kinh tế trở lại từ ngày 15/3/2022 khi dịch Covid-19 được kiểm soát, các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tới các nước trên thế giới được đẩy mạnh. Đóng góp của một số ngành dịch vụ vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của quý I năm nay như sau: Dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 25,98% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,64 điểm phần trăm; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 8,09%, đóng góp 0,85 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,65%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 6,85%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 1,5%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế quý I/2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,66%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 35,47%; khu vực dịch vụ chiếm 43,65%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,22% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2022 là 11,57%; 37,08%; 42,06%; 9,29%).
Về sử dụng GDP quý I/2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,01% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 46,11% vào tốc độ tăng chung; tích lũy tài sản tăng 0,02%, đóng góp 0,14%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 8,33%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 10,52%, chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 53,75%.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực Trung ương (GRDP) quý I năm 2023 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 58 địa phương và giảm ở 5 địa phương trên cả nước.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Tính đến trung tuần tháng Ba, cả nước gieo trồng được 2.922,3 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 98,7% cùng kỳ năm trước. Trong đó, vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.478,7 nghìn ha, bằng 98,1% và đã cho thu hoạch 792,4 nghìn ha, chiếm 53,6% diện tích gieo cấy và bằng 101,9% cùng kỳ năm trước, năng suất đạt 71,2 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha; sản lượng ước đạt 10,5 triệu tấn, giảm 145,4 nghìn tấn do diện tích gieo trồng giảm 28,1 nghìn ha.
– Quý I năm 2023, sản lượng thu hoạch nhiều loại cây lâu năm tăng so với cùng kỳ năm 2022 do thời tiết thuận lợi, giá bán sản phẩm ổn định.
– Chăn nuôi: Chăn nuôi bò trong quý phát triển ổn định. Chăn nuôi gia cầm phát triển khá, dịch bệnh được kiểm soát. Chăn nuôi lợn có mức tăng sản lượng cao nhưng lại gặp khó khăn do giá bán thịt hơi ở mức thấp, trong khi chi phí thức ăn chăn nuôi tăng cao.
Tính chung quý I/2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 38,7 nghìn ha, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 3.349,2 nghìn m3, tăng 4,2%; diện tích rừng bị thiệt hại 251,6 ha, tăng 14,2%.
Tính chung quý I/2023, sản lượng thủy sản ước đạt 1.889,2 nghìn tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 1.404,6 nghìn tấn, tăng 1,4%; tôm đạt 184,5 nghìn tấn, tăng 2,2%; thủy sản khác đạt 300,1 nghìn tấn, tăng 0,7%.
– Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I năm 2023 ước tính giảm 0,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,37%, làm giảm 0,1 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Chỉ số IIP ước tính giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,8%).
– Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2023 giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,6%).
– Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2023 tăng 19,8% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 17,7%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I/2023 là 81,1% (bình quân quý I/2022 là 79,9%).
– Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/3/2023 tăng 0,8% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,2% so với cùng thời điểm năm trước.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp
– Trong tháng Ba, cả nước có 14,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 60,9% so với tháng trước và giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước; gần 6,3 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 60,1% và tăng 46,2%; có 4.147 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 9,1% và tăng 39,3%; 3.452 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 31% và tăng 39,5%; có 1.412 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 21% và tăng 31,1%.
– Tính chung quý I/2023, cả nước có 57 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, giảm 5,4% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có gần 19 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 60,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có gần 20,1 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2023 cho thấy số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn thấp hơn nhiều so với các quý năm 2022 (chỉ có 24,3%) nhưng dự kiến quý II/2023, có 44,1% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý I/2023.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Ba ước đạt 501,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,0% so với tháng trước và tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 1.505,3 nghìn tỷ đồng, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 10,3%.
Vận tải hành khách tháng Ba ước đạt 372,4 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 0,7% so với tháng trước và luân chuyển 21,6 tỷ lượt khách.km, tăng 2,2%. Tính chung quý I năm 2023, vận tải hành khách ước đạt 1.114,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 28,8% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 63,7 tỷ lượt khách.km, tăng 66,5%. Vận tải hàng hóa tháng 3/2023 ước đạt 184,9 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 2,1% so với tháng trước và luân chuyển 40,1 tỷ tấn.km, tăng 1,7%. Tính chung quý I năm 2023, vận tải hàng hóa ước đạt 549,8 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 117,4 tỷ tấn.km, tăng 21,9%.
Khách quốc tế đến Việt Nam tháng Ba ước đạt 895,4 nghìn lượt người, giảm 4% so với tháng trước và gấp 21,5 lần cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2023, khách quốc tế đến nước ta ước đạt hơn 2.699,5 nghìn lượt người, gấp 29,7 lần cùng kỳ năm trước nhưng vẫn chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19.
6. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán
– Tính đến thời điểm 20/3/2023, tổng phương tiện thanh toán tăng 0,57% so với cuối năm 2022; huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 0,77%; tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 1,61%.
– Tổng doanh thu phí bảo hiểm quý I/2023 ước đạt 59.458 tỷ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2022.
– Tính chung quý I năm 2023, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 11.437 tỷ đồng/phiên, giảm 43,3% so với bình quân năm 2022; giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 4.740 tỷ đồng/phiên, giảm 38,3%.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2023 theo giá hiện hành ước đạt 583,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn khu vực Nhà nước tăng 11,5% cho thấy sự quyết tâm nỗ lực của Chính phủ, bộ ngành và địa phương trong việc quyết liệt đẩy mạnh thực hiện nguồn vốn đầu tư công ngay từ các tháng đầu năm nhằm tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 30/3/2023 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 7,8 tỷ USD, giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 3 tháng đầu năm 2023 ước đạt 4,32 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng thu ngân sách Nhà nước quý I/2023 ước đạt 491,5 nghìn tỷ đồng, bằng 30,3% dự toán năm và tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng chi ngân sách Nhà nước quý I/2023 ước đạt 363,4 nghìn tỷ đồng, bằng 17,5% dự toán năm và tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước.
9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
– Xuất khẩu hàng hóa: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 3/2023 ước đạt 29,57 tỷ USD, tăng 13,5% so với tháng trước và giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 79,17 tỷ USD, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm trước.
– Nhập khẩu hàng hóa: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2023 ước đạt 28,92 tỷ USD, tăng 24,4% so với tháng trước và giảm 11,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 75,1 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm trước.
– Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa quý I năm 2023, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 20,6 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 23,6 tỷ USD.
– Cán cân thương mại hàng hóa tháng Ba ước tính xuất siêu 0,65 tỷ USD. Tính chung quý I năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 4,07 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 1,9 tỷ USD).
Trong quý I/2023, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 5,44 tỷ USD, tăng 238,3% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước đạt 5,66 tỷ USD, giảm 4,3%. Nhập siêu dịch vụ quý I năm 2023 là 216 triệu USD.
10. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
– Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2023 giảm 0,23% so với tháng trước. So với tháng 12/2022, CPI tháng 3/2023 tăng 0,74% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,35%. Tính chung quý I năm 2023, CPI tăng 4,18% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 5,01%.
– Chỉ số giá vàng tháng Ba giảm 0,56% so với tháng trước; giảm 2,36% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I năm 2023, chỉ số giá vàng trong nước tăng 1,25% so với cùng kỳ năm trước.
– Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Ba tăng 0,47% so với tháng trước; tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I năm 2023, chỉ số giá đô la Mỹ trong nước tăng 3,45% so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình lao động, việc làm quý I năm 2023 phục hồi tích cực; đời sống nhân dân được đảm bảo; công tác bảo đảm an sinh xã hội được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả.
Lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I năm 2023 ước tăng 1,1 triệu người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước giảm 0,21 điểm phần trăm; thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương là 7,9 triệu đồng/tháng, tăng 578 nghìn đồng.
Tính đến ngày 20/3/2023, số tiền hỗ trợ đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 là gần 1,24 nghìn tỷ đồng; hộ nghèo, hộ cận nghèo là hơn 2,34 nghìn tỷ đồng; người có công, thân nhân người có công với cách mạng là hơn 2,56 nghìn tỷ đồng.
[1] Tốc độ tăng GDP quý I so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2023 lần lượt là: 5,96%; 4,94%; 4,68%; 5,54%; 6,25%; 5,49%; 5,17%; 7,78%; 7,09%; 3,21%; 4,92%; 5,05%; 3,32%.
[2] Tốc độ tăng/giảm giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý I so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2023 lần lượt là: 8,37%; 7,40%; 3,81%; 4,14%; 8,38%; 6,05%; 3,84%; 8,88%; 8,13%; 4,48%; 5,93%; 7,16%; -0,82%.
[3] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ quý I năm 2022 so với cùng kỳ năm trước đạt 4,52%.
[4] Ước tính tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu tháng 3/2023 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 28/3/2023. Tổng cục Thống kê ước tính trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tháng 3/2023 dựa trên số liệu sơ bộ về trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu đến hết ngày 27/3/2023 do Tổng cục Hải quan cung cấp.
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2024 ước tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng của quý I các năm 2020-2023[1]. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,98%, đóng góp 6,09% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,28%, đóng góp 41,68%; khu vực dịch vụ tăng 6,12%[2], đóng góp 52,23%.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu, nuôi trồng thủy sản đạt tăng trưởng tích cực. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp quý I/2024 tăng 2,81% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,26 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 4,08% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,46%, đóng góp 0,08 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, sản xuất công nghiệp khởi sắc và tiếp tục đà tăng trưởng từ cuối năm 2023. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I/2024 tăng 6,18% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước giảm 0,73%), đóng góp 2,02 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,98%[3], đóng góp 1,73 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,97%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,99%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,84% (sản lượng khai thác than giảm 0,3% và dầu mỏ thô khai thác giảm 3,2%), làm giảm 0,2 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 6,83%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 1,87% của quý I/2023, đóng góp 0,4 điểm phần trăm.
Trong khu vực dịch vụ, các hoạt động thương mại diễn ra sôi động, du lịch phục hồi mạnh mẽ nhờ hiệu quả của chính sách thị thực thuận lợi và chương trình kích cầu du lịch, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm chủ lực tăng cao. Đóng góp của một số ngành dịch vụ vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế quý I năm nay như sau: Ngành vận tải kho bãi tăng 10,58% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,68 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 8,34%, đóng góp 0,24 điểm phần trăm; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 6,94%, đóng góp 0,76 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 5,2%, đóng góp 0,32 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 4,14%, đóng góp 0,28 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế quý I/2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,77%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 35,73%; khu vực dịch vụ chiếm 43,48%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,02%[4].
Về sử dụng GDP quý I/2024, tiêu dùng cuối cùng tăng 4,93% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 56,77% vào tốc độ tăng chung; tích lũy tài sản tăng 4,69%, đóng góp 24,07%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 18%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 17,08%, chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 19,16%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
– Lúa đông xuân: Tính đến trung tuần tháng Ba, cả nước gieo cấy được 2.926,1 nghìn ha lúa đông xuân, giảm 1,3 nghìn ha so với vụ đông xuân năm 2023. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.478,6 nghìn ha, tăng 8,9 nghìn ha so với vụ đông xuân năm 2023 và đã thu hoạch 868,8 nghìn ha, chiếm 58,8% diện tích gieo cấy, bằng 106,1% cùng kỳ năm trước; năng suất ước đạt xấp xỉ vụ đông xuân năm trước; sản lượng ước đạt 10,7 triệu tấn, tăng 65 nghìn tấn.
– Lúa mùa: Đến giữa tháng Ba, vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo trồng lúa mùa đạt 183,1 nghìn ha, tăng 5,2 nghìn ha so với vụ mùa năm trước; năng suất đạt cao với 53,7 tạ/ha, tăng 2,3 tạ/ha; sản lượng đạt 974,4 nghìn tấn, tăng 60,3 nghìn tấn.
– Cây hàng năm: Tính đến giữa tháng Ba, tiến độ gieo trồng một số cây rau màu vụ đông xuân như rau đậu, ngô, khoai lang tăng so với cùng kỳ năm trước; diện tích lạc, đậu tương giảm chủ yếu do hiệu quả kinh tế không cao.
– Cây lâu năm: Sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm quý I/2024 tăng so với cùng kỳ năm trước do thời tiết thuận lợi, giá bán sản phẩm ổn định.
– Chăn nuôi: Chăn nuôi trâu, bò có xu hướng giảm; chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển tốt. Tổng số lợn của cả nước ước tính đến thời điểm cuối tháng 3/2024 tăng 3,3% so với cùng thời điểm năm 2023; tổng số gia cầm tăng 2,1%; tổng số bò giảm 0,1%; tổng số trâu giảm 2,5%.
Diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước tháng 3/2024 ước đạt 19,2 nghìn ha, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng bị thiệt hại là 163,7 ha, tăng 7,8%, trong đó: Rừng bị chặt, phá là 94,3 ha, tăng 6,5%; diện tích rừng bị cháy là 69,4 ha, tăng 9,5%. Tính chung quý I/2024, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước đạt 37,3 nghìn ha, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước do thời tiết mưa nhiều nên ảnh hưởng đến tiến độ trồng rừng ở một số địa phương; diện tích rừng bị thiệt hại là 252,3 ha, tăng 0,3%, trong đó: Diện tích rừng bị chặt, phá là 182,2 ha, tăng 1,1%; diện tích rừng bị cháy là 70,1 ha, giảm 1,9%.
Sản lượng thủy sản tháng 3/2024 ước đạt 725,4 nghìn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 400,3 nghìn tấn, tăng 3,9%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 325,1 nghìn tấn, tăng 0,7%. Tính chung quý I/2024, sản lượng thủy sản ước đạt 1.941,5 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 1.440,8 nghìn tấn, tăng 2%; tôm đạt 193 nghìn tấn, tăng 3,9%; thủy sản khác đạt 307,7 nghìn tấn, tăng 2%.
Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I/2024 ước tính tăng 6,18% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,98%, đóng góp 1,73 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,97%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,99%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,84%, làm giảm 0,20 điểm phần trăm.
– Chỉ số sản xuất công nghiệp quý I/2024 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 54 địa phương và giảm ở 9 địa phương trên cả nước.
– Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2024 tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2023 (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,9%).
– Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2024 tăng 9,8% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 14,1% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 19,8%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I/2024 là 68,7% (bình quân quý I/2023 là 81,1%).
– Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/3/2024 tăng 1,3% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 1,1% so với cùng thời điểm năm trước.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[5]
– Trong tháng Ba, cả nước có 14,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 64,3% so với tháng trước và giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước; hơn 3 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 43,4% và giảm 52%; có 4.139 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 19,6% và giảm 0,2%; 4.980 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 131,3% và tăng 44,3%; có 1.412 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 6,2% so với tháng 02/2024 và tương đương cùng kỳ năm trước.
– Tính chung quý I/2024, cả nước có 59,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có gần 20 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 73,9 nghìn doanh nghiệp, tăng 22,8% so với cùng kỳ năm trước; Bình quân một tháng có gần 24,7 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Như vậy, so sánh giữa số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động với số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, trong quý I/2024, tổng số doanh nghiệp nước ta giảm 14,1 nghìn doanh nghiệp, bình quân một tháng giảm 4,7 nghìn doanh nghiệp.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2024, số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý IV/2023 thấp, chỉ có 22,1% nhưng dự kiến quý II/2024, có 45,4% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý I/2024.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tháng 3/2024 ước đạt 509,3 nghìn tỷ đồng, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 1.537,6 nghìn tỷ đồng, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2023 tăng 13,9%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,1% (quý I/2023 tăng 10,1%).
Vận tải hành khách tháng 3/2024 ước đạt 398,1 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 3,8% so với tháng trước và luân chuyển 21,7 tỷ lượt khách.km, giảm 6,9%. Tính chung quý I/2024, vận tải hành khách ước đạt 1.199,6 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 66,6 tỷ lượt khách.km, tăng 10,7%. Vận tải hàng hóa tháng 3/2024 ước đạt 208,1 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 3,1% so với tháng trước và luân chuyển 41,4 tỷ tấn.km, tăng 0,8%. Tính chung quý I/2024, vận tải hàng hóa ước đạt 620,1 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 129,2 tỷ tấn.km, tăng 11,2%.
Hoạt động viễn thông quý I/2024 nhìn chung ổn định với doanh thu theo giá hiện hành ước đạt 89,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 3,1%).
Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 3/2024 đạt gần 1,6 triệu lượt người, tăng 4,4% so với tháng trước và tăng 78,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, khách quốc tế đến nước ta ước đạt hơn 4,6 triệu lượt người, tăng 72% so với cùng kỳ năm trước và tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19.
Số lượt người Việt Nam xuất cảnh trong tháng 3/2024 là 537,4 nghìn lượt người, tăng 42,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, số lượt người Việt Nam xuất cảnh đạt 1,2 triệu lượt người, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước.
6. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán
– Tính đến thời điểm 25/3/2023, huy động vốn của các tổ chức tín dụng giảm 0,76% so với cuối năm 2023; tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 0,26%.
– Tổng doanh thu phí bảo hiểm quý I/2024 ước đạt 53.295 tỷ đồng, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm 2023.
– Về thị trường chứng khoán, chỉ số VN-Index có xu hướng tăng mạnh so với cuối năm 2023. Tính chung quý I/2024, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 22.529 tỷ đồng/phiên, tăng 28,2% so với bình quân năm 2023; giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 9.698 tỷ đồng/phiên, tăng 48,8%.
– Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2024 theo giá hiện hành ước đạt 613,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước đã phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh trong nước có xu hướng phục hồi ở nhiều ngành, lĩnh vực.
– Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/3/2024 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 6,17 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước.
– Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam ba tháng đầu năm 2024 ước đạt 4,63 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước.
– Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong ba tháng đầu năm 2024 có 22 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 28,7 triệu USD, giảm 74,6% so với cùng kỳ năm trước; có 2 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh tăng 220 nghìn USD, giảm 96,5%. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 28,9 triệu USD, giảm 75,8% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 3/2024 ước đạt 141,8 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước quý I/2024 đạt 539,5 nghìn tỷ đồng, bằng 31,7% dự toán năm và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 3/2024 ước đạt 140,3 nghìn tỷ đồng; lũy kế quý I/2024 ước đạt 393,5 nghìn tỷ đồng, bằng 18,6% dự toán năm và tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước.
9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
Trong tháng Ba, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa[7] ước đạt 65,09 tỷ USD, tăng 35,6% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 178,04 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 17%; nhập khẩu tăng 13,9% . Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 8,08 tỷ USD.
– Xuất khẩu hàng hóa: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 3/2024 ước đạt 34,01 tỷ USD, tăng 37,8% so với tháng trước và tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 93,06 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 25,21 tỷ USD, tăng 26,2%, chiếm 27,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 67,85 tỷ USD, tăng 13,9%, chiếm 72,9%.
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu quý I/2024, nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt 82,02 tỷ USD, chiếm 88,1%.
– Nhập khẩu hàng hóa: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2024 ước đạt 31,08 tỷ USD, tăng 33,4% so với tháng trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 84,98 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 29,7 tỷ USD, tăng 14,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 55,28 tỷ USD, tăng 13,6%.
Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu quý I/2024, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước đạt 79,9 tỷ USD, chiếm 94%.
– Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa quý I/2024, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 26,2 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 29,4 tỷ USD.
– Cán cân thương mại hàng hóa tháng Ba ước tính xuất siêu 2,93 tỷ USD. Tính chung quý I/2024, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 8,08 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 4,93 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 4,49 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 12,57 tỷ USD.
Trong quý I/2024, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 5,67 tỷ USD, tăng 24,7% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ quý I/2024 ước đạt 8 tỷ USD (trong đó đã tính trong phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm của hàng hóa nhập khẩu là 2,69 tỷ USD), tăng 26,8% so với cùng kỳ năm trước. Cán cân thương mại dịch vụ quý I/2024 nhập siêu 2,33 tỷ USD.
10. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỏ số giá đô la Mỹ
– Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2024 giảm 0,23% so với tháng trước, so với tháng 12/2023 tăng 1,12% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,97%. Tính chung quý I/2024, CPI tăng 3,77% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,81%.
– Chỉ số giá vàng tháng 3/2024 tăng 4,59% so với tháng trước; tăng 9,41% so với tháng 12/2023; tăng 22,71% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I/2024, chỉ số giá vàng tăng 18,23%.
– Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2024 tăng 0,88% so với tháng trước; tăng 1,81% so với tháng 12/2023; tăng 4,32% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I/2024 tăng 3,97%.
Tình hình lao động, việc làm quý I/2024 đã quay trở lại theo xu hướng phát triển bình thường như thời kỳ trước dịch Covid-19. Tình hình đời sống dân cư trong quý I năm nay được cải thiện hơn. Công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý I/2024 ước tính là 52,4 triệu người, giảm 137,4 nghìn người so với quý trước và tăng 175,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý I/2024 là 27,8%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Lao động có việc làm quý I/2024 ước tính là 51,3 triệu người, giảm 127,0 nghìn người so với quý trước và tăng 174,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý I/2024 là 2,03% (khu vực thành thị là 1,20%, khu vực nông thôn là 2,58%); tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý I/2024 là 2,24% (khu vực thành thị là 2,64%; khu vực nông thôn là 1,99%); tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) quý I/2024 là 7,99%.
Thu nhập bình quân của lao động quý I/2024 là 7,6 triệu đồng/tháng, tăng 301 nghìn đồng so với quý IV/2023 và tăng 549 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2023.
Tình hình đời sống dân cư trong quý I năm nay được cải thiện hơn. Theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư 2024, thu nhập bình quân đầu người quý I/2024 ước đạt 5,2 triệu đồng/tháng, tăng khoảng 8% so với quý trước và tăng 10% so với cùng kỳ năm 2023.
Theo báo cáo từ địa phương, tính đến ngày 19/3/2024, số tiền hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 là 8,1 nghìn tỷ đồng; hộ nghèo, hộ cận nghèo là hơn 2,4 nghìn tỷ đồng; người có công, thân nhân người có công với cách mạng là 9,2 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ đột xuất, bất thường phát sinh tại địa phương là gần 26,8 tỷ đồng.
Theo thông tin từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, để người dân không bị thiếu đói, tính từ đầu năm đến nay, tổng số gạo Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã hỗ trợ cho người dân hơn 17,7 nghìn tấn gạo, trong đó: Hỗ trợ 10,4 nghìn tấn gạo cứu đói nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn cho 103,7 nghìn hộ với 693,4 nghìn nhân khẩu; Chính phủ hỗ trợ hơn 2,3 nghìn tấn gạo cứu đói giáp hạt năm 2024 cho hơn 33 nghìn hộ với 155,7 nghìn nhân khẩu./.
[1] Tốc độ tăng GDP quý I so với cùng kỳ năm trước các năm 2020-2023 lần lượt là: 3,21%; 4,85%; 5,12%; 3,41%.
[2] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ quý I so với cùng kỳ năm trước các năm 2020-2023 lần lượt là: 3,03%; 4,51%; 4,38%; 6,86%.
[3] Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2023 giảm 0,45% so với cùng kỳ năm trước.
[4] Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2023 là 11,74%; 36,02%; 43,07%; 9,17%.
[5] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 24/3/2024.
[6] Kim ngạch xuất khẩu tính theo giá F.O.B và kim ngạch nhập khẩu tính theo giá C.I.F (bao gồm chi phí vận tải, bảo hiểm của hàng nhập khẩu). Khi tính cán cân thương mại của nền kinh tế thì kim ngạch xuất, nhập khẩu được tính theo giá F.O.B.
[7] Ước tính tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu tháng 3/2024 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 27/3/2024. Tổng cục Thống kê ước tính trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tháng 3/2024 dựa trên số liệu sơ bộ về trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu đến hết ngày 24/3/2024 do Tổng cục Hải quan cung cấp.
Kinh tế – xã hội nước ta ba tháng đầu năm 2020 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, những nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng đồng chung châu Âu đang chứng kiến tình trạng suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế; giá dầu thô giảm mạnh do căng thẳng giữa A-rập Xê-út và Liên bang Nga, chiến tranh thương mại Mỹ – Trung vẫn tiếp diễn, căng thẳng địa chính trị gia tăng giữa Mỹ và Iran, cùng với biến đổi khí hậu và đặc biệt là dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19) bùng phát mạnh trên toàn cầu đã tác động tiêu cực đến kinh tế của các quốc gia trên thế giới[1]. Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục cắt giảm lãi suất cho thấy dấu hiệu suy giảm sâu của kinh tế Mỹ, nhiều nước châu Âu đóng cửa biên giới nhằm ngăn chặn dịch bệnh lây lan đã đe dọa chuỗi cung ứng và làm tăng nguy cơ thiếu hụt nguyên liệu sản xuất, sản phẩm tiêu dùng. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ kết quả tăng trưởng tích cực năm 2019, kinh tế vĩ mô ổn định nhưng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường làm tăng trưởng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực chậm lại, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm tăng cao. Bên cạnh đó, thời tiết những tháng đầu năm không thuận lợi, hạn hán, xâm nhập mặn diễn ra sớm ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng, dịch tả lợn châu Phi chưa được khống chế hoàn toàn.
Trước tình hình đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp vừa phòng chống dịch bệnh, bảo đảm sức khỏe người dân, vừa phòng chống suy giảm kinh tế và giữ vững ổn định xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2020. Ngày 4/3/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý I năm nay như sau:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2020 ước tính tăng 3,82% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất của quý I các năm trong giai đoạn 2011-2020[2]. Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội, toàn bộ hệ thống chính trị, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đặt ưu tiên hàng đầu lên phòng chống và dập dịch, hy sinh lợi ích kinh tế để đảm bảo tính mạng và sức khỏe của nhân dân thì nền kinh tế nước ta tiếp tục duy trì tăng trưởng, không rơi vào tình trạng tăng trưởng âm là thắng lợi của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong cuộc chiến đẩy lùi dịch bệnh, đồng thời vẫn duy trì các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,08%, đóng góp 0,2% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,15%, đóng góp 58,4%; khu vực dịch vụ tăng 3,27%, đóng góp 41,4%.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong quý I/2020 tăng thấp so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, dịch Covid-19 và dịch tả lợn châu Phi. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng trưởng âm 1,17%, chỉ cao hơn mức tăng trưởng âm 2,69% của quý I/2016 trong giai đoạn 2011-2020[3], làm giảm 0,1 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 5,03% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,04 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,79%, thấp hơn mức tăng 4,96% và 5,42% của cùng kỳ các năm 2018 và 2019, đóng góp 0,07 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp quý I/2020 tăng 5,28% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều mức tăng 10,45% của quý I/2018 và 9% của quý I/2019, đóng góp 1,89 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,12%, chỉ cao hơn mức tăng 4,38% và 5,97% của cùng kỳ các năm 2013 và 2014 trong giai đoạn 2011-2020[4], đóng góp 1,64 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng tăng trưởng âm 3,18%, làm giảm 0,21 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế do sản lượng dầu thô khai thác giảm 10,9% và khí đốt tự nhiên giảm 9,9%. Ngành xây dựng tăng 4,37%, cao hơn mức tăng 0,35% và 1,18% của quý I năm 2011 và năm 2012 trong giai đoạn 2011-2020[5], đóng góp 0,25 điểm phần trăm.
Trong những tháng đầu năm 2020, dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Khu vực dịch vụ trong quý I/2020 đạt mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm 2011-2020[6]. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của quý I như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 5,69% so với cùng kỳ năm trước, là ngành đóng góp lớn nhất vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế (0,7 điểm phần trăm); hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,19%, đóng góp 0,33 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 0,9%, làm giảm 0,03 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 11,04%, làm giảm 0,53 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế quý I/2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 10,11%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 35,52%; khu vực dịch vụ chiếm 43,71%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,66% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2019 là: 10,15%; 35,31%; 43,99%; 10,55%).
Trên góc độ sử dụng GDP quý I/2020, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,07% so với cùng kỳ năm 2019; tích lũy tài sản tăng 2,20%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 1,59%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 1,05%.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2020 gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi; hạn hán, xâm nhập mặn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long; dịch cúm gia cầm có nguy cơ bùng phát và dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu sản phẩm nông sản. Sản xuất lâm nghiệp phát triển ổn định; sản xuất thủy sản quý I/2020 tăng thấp hơn cùng kỳ năm trước.
Tính đến trung tuần tháng Ba, cả nước gieo trồng được 2.998,7 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 97% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1.076,8 nghìn ha, bằng 98,9%; các địa phương phía Nam đạt 1.921,9 nghìn ha, bằng 96%. Tại các địa phương phía Bắc, thời tiết nắng ấm cùng nguồn nước tưới được cung ứng hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho việc gieo trồng lúa. Hiện nay, cây lúa đang trong giai đoạn đẻ nhánh, làm đòng, sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy nhiên dự báo thời tiết sẽ nắng nóng, sâu bệnh gây hại diễn biến phức tạp, cần theo dõi sát diễn biến tình hình sâu bệnh và xử lý kịp thời các ổ bệnh để không ảnh hưởng đến sự phát triển của cây lúa. Sản xuất lúa đông xuân ở các địa phương phía Nam gặp khó khăn do tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng, riêng diện tích gieo trồng lúa đông xuân vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm nay đạt 1.546,4 nghìn ha, giảm 57,9 nghìn ha so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có diện tích lúa giảm nhiều là: Bình Thuận giảm 15,5 nghìn ha; Sóc Trăng giảm 15,4 nghìn ha; Trà Vinh giảm 8,2 nghìn ha; Ninh Thuận giảm 5,1 nghìn ha. Đến nay, các địa phương phía Nam đã thu hoạch 1.143,1 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 105,9% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1.121 nghìn ha, bằng 105,9% với năng suất ước tính đạt 68,6 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước. Có được kết quả này là do ngành Nông nghiệp đã chủ động triển khai các giải pháp phòng chống và ứng phó với tình trạng xâm nhập mặn, sử dụng các loại giống lúa ít bị nhiễm sâu bệnh cho năng suất cao. Xâm nhập mặn ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang có xu hướng tăng cao, tính đến ngày 20/3/2020 có 33,8 nghìn ha lúa đông xuân bị nhiễm mặn, trong đó diện tích mất trắng là 20,2 nghìn ha, chiếm 1,3% diện tích gieo trồng. Một số địa phương có diện tích lúa đông xuân bị thiệt hại nhiều do xâm nhập mặn: Trà Vinh 6,8 nghìn ha, Bến Tre 5,3 nghìn ha, Sóc Trăng 3,6 nghìn ha.
Đến trung tuần tháng Ba, vùng Đồng bằng sông Cửu Long kết thúc thu hoạch lúa vụ mùa 2019-2020. Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, diện tích gieo trồng lúa mùa của toàn vùng ước tính đạt 169,2 nghìn ha, giảm 2,5 nghìn ha so với cùng kỳ năm trước; năng suất đạt 44,5 tạ/ha, giảm 0,9 tạ/ha; sản lượng đạt 753,2 nghìn tấn, giảm 26,6 nghìn tấn. Diện tích lúa bị nhiễm mặn làm năng suất lúa mùa giảm, đồng thời việc chuyển đổi diện tích trồng lúa mùa sang nuôi trồng thủy sản ở một số địa phương đã ảnh hưởng tới kết quả sản xuất vụ mùa của toàn vùng. Một số địa phương có diện tích gieo trồng lúa mùa giảm so với cùng kỳ năm trước: Cà Mau giảm 2,1 nghìn ha; Kiên Giang giảm 1,5 nghìn ha, Bến Tre giảm 0,8 nghìn ha.
Tính đến giữa tháng Ba, các địa phương trong cả nước đã gieo trồng được 312,9 nghìn ha ngô, bằng 98,7% cùng kỳ năm trước; 56 nghìn ha khoai lang, bằng 91,1%; 13,4 nghìn ha đỗ tương, bằng 89,3%; 113 nghìn ha lạc, bằng 93,5%; 543,8 nghìn ha rau đậu, bằng 101,5%.
Trong quý I/2020, một số cây công nghiệp lâu năm đã cho thu hoạch, trong đó: Sản lượng điều đạt 149,8 nghìn tấn, tăng 6% so với cùng kỳ năm trước; hồ tiêu đạt 137,6 nghìn tấn, tăng 2%; cao su đạt 115,1 nghìn tấn, tăng 3,5%. Sản lượng một số loại cây ăn quả tăng: Bưởi đạt 140 nghìn tấn, tăng 12%; thanh long đạt 390 nghìn tấn, tăng 10%; cam đạt 229,3 nghìn tấn, tăng 8%; xoài đạt 107,7 nghìn tấn, tăng 4,5%; dứa đạt 245,3 nghìn tấn, tăng 3%; nhãn đạt 82,6 nghìn tấn, tăng 3%; chôm chôm đạt 41,9 nghìn tấn, tăng 1,9%; chuối đạt 592,4 nghìn tấn, tăng 1,3%.
Chăn nuôi trâu bò nhìn chung ổn định. Đàn trâu cả nước tiếp tục xu hướng giảm do hiệu quả kinh tế không cao; đàn bò phát triển khá do thị trường tiêu thụ ổn định, giá bán thịt bò hơi ở mức cao nên người nuôi có lãi. Ước tính tháng 3/2020, đàn trâu của cả nước giảm 2% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò tăng 3,6%. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng trong quý I/2020 đạt 27,5 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng đạt 106,5 nghìn tấn, tăng 7,3%; sản lượng sữa bò tươi đạt 257,1 nghìn tấn, tăng 5%. Chăn nuôi lợn có xu hướng dần hồi phục trở lại, dịch tả lợn châu Phi tiếp tục được kiểm soát với 41/63 địa phương công bố hết dịch. Ước tính tổng đàn lợn cả nước tháng Ba giảm 17,5% so với cùng thời điểm năm 2019; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I/2020 đạt 811 nghìn tấn, giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước.
Chăn nuôi gia cầm tiếp tục phát triển do các hộ chăn nuôi mở rộng quy mô, tuy nhiên dịch cúm gia cầm còn xuất hiện ở một số địa phương và thời tiết mưa ẩm là điều kiện thuận lợi cho vi rút cúm tồn tại, lây lan nên cần có biện pháp để phòng, chống dịch hiệu quả. Ước tính tổng đàn gia cầm của cả nước tháng Ba tăng 15% so với cùng thời điểm năm 2019; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I/2020 đạt 383,4 nghìn tấn, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng trứng gia cầm đạt 4,1 tỷ quả, tăng 14,1%.
Tính đến ngày 25/3/2020, cả nước không còn dịch tai xanh và dịch tả lợn châu Phi không phát sinh thêm ổ dịch mới, có 6 ổ dịch cúm gia cầm A/H5N6 tại 5 địa phương[7] và 6 ổ dịch lở mồm long móng tại 4 tỉnh[8] chưa qua 21 ngày.
Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào công tác trồng rừng và chăm sóc rừng ở các địa phương trên cả nước. Trong tháng Ba, diện tích rừng trồng tập trung của cả nước ước tính đạt 17,1 nghìn ha, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.095,3 nghìn m3, tăng 7,3%; số cây trồng phân tán đạt 11 triệu cây, giảm 2,5%. Tính chung quý I/2020, diện tích rừng trồng tập trung cả nước ước tính đạt 32,6 nghìn ha, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 21,7 triệu cây, giảm 0,5%; sản lượng gỗ khai thác đạt 2.881 nghìn m3, tăng 5%; sản lượng củi khai thác đạt 4,6 triệu ste, tăng 0,2%.
Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng 3/2020 là 263,5 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy là 194,1 ha; diện tích bị chặt phá là 69,4 ha. Tính chung quý I/2020, diện tích rừng bị thiệt hại là 348,3 ha, gấp 2,3 lần cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 217,1 ha, gấp 4 lần; diện tích rừng bị chặt phá là 131,2 ha, tăng 37%.
Sản lượng thủy sản tháng Ba ước tính đạt 502,2 nghìn tấn, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 368,4 nghìn tấn, tăng 0,8%; tôm đạt 51,8 nghìn tấn, tăng 3,8%; thủy sản khác đạt 82 nghìn tấn, tăng 1,4%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 160,1 nghìn tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 104,9 nghìn tấn, giảm 2,1%; tôm đạt 37,4 nghìn tấn, tăng 7,8%. Nuôi cá tra đang gặp khó khăn và chưa có dấu hiệu phục hồi, giá cá tra hiện ở mức thấp nhất trong 10 năm qua, người nuôi lo ngại nên không mạnh dạn thả nuôi. Ngoài ra, ảnh hưởng của dịch Covid-19 làm xuất khẩu cá da trơn sang các thị trường chủ yếu sụt giảm[9]. Sản lượng cá tra tháng Ba ước tính đạt 74,7 nghìn tấn, giảm 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2020, sản lượng cá tra ước tính đạt 242,8 nghìn tấn, giảm 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có sản lượng cá tra giảm: Đồng Tháp đạt 97,8 nghìn tấn, giảm 1,1%; An Giang đạt 77,8 nghìn tấn, giảm 4,7%; Cần Thơ 33,2 nghìn tấn, giảm 8,9%. Nuôi tôm nước lợ những tháng đầu năm 2020 đối mặt với nhiều khó khăn như tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn; độ mặn và nhiệt độ thay đổi làm giảm sức đề kháng của tôm; giá tôm thẻ chân trắng không ổn định. Riêng giá tôm sú trong quý I/2020 ở mức cao hơn so với cùng kỳ năm trước, mô hình nuôi tôm sú đã chuyển từ quảng canh sang quảng canh cải tiến. Sản lượng tôm sú tháng Ba ước tính đạt 18,8 nghìn tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 8,7 nghìn tấn, tăng 10,2%. Tính chung quý I/2020, sản lượng tôm sú ước tính đạt 45 nghìn tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 49,8 nghìn tấn, tăng 8,5%.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng Ba ước tính đạt 342,1 nghìn tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng cá đạt 263,5 nghìn tấn, tăng 2%; tôm đạt 14,4 nghìn tấn, giảm 5,3%, thủy sản khác đạt 64,2 nghìn tấn, tăng 0,6%. Sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 334 nghìn tấn, tăng 1,4%.
Tính chung quý I/2020, sản lượng thủy sản ước tính đạt 1.503,1 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 662,1 nghìn tấn, tăng 2,1%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 841 nghìn tấn, tăng 1,9% (sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 806,2 nghìn tấn, tăng 2%).
Ngành công nghiệp quý I/2020 chịu ảnh hưởng từ dịch Covid-19 nên đạt mức tăng trưởng thấp 5,28% so với cùng kỳ năm trước; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng thấp nhất giai đoạn 2016-2020[10]; sản xuất và phân phối điện tăng trưởng ổn định; ngành khai khoáng giảm sâu chủ yếu do khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm mạnh.
Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I/2020 ước tính tăng 5,28% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,12%, đóng góp 1,64 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,46%, đóng góp 0,41 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,67%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 3,18% do khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm mạnh, làm giảm 0,21 điểm phần trăm.
Xét theo công dụng sản phẩm công nghiệp, chỉ số sản xuất sản phẩm trung gian (phục vụ cho quá trình sản xuất tiếp theo) quý I/2020 tăng 6% so với cùng kỳ năm trước; sản phẩm phục vụ cho sử dụng cuối cùng tăng 3,6% (sản phẩm là tư liệu sản xuất tăng 0,6% và sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng của dân cư tăng 4,5%).
Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, bùng phát mạnh tại một số quốc gia đã ảnh hưởng đến nguồn nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất công nghiệp, đặc biệt là ngành chế biến, chế tạo. Ngoài ra, Nghị định số 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có hiệu lực ngày 1/1/2020 đã thay đổi thói quen uống rượu, bia của người dân, từ đó ảnh hưởng đến ngành sản xuất đồ uống. Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất quý I/2020 giảm hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 15,4%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10,4% (khai thác dầu thô giảm 10,9%; khai thác khí đốt tự nhiên giảm 9,9%); sản xuất đồ uống giảm 9%; hoạt động dịch vụ hỗ trợ và khai thác mỏ, quặng giảm 8,2%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị giảm 7%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 4,2%; ngành sản xuất trang phục chịu tác động nặng nhất từ dịch Covid-19 với mức giảm 3%, đây cũng là lần đầu tiên ngành này sụt giảm; sản xuất xe có động cơ giảm 2,5%; sản xuất thiết bị điện giảm 2,3%; sản xuất kim loại tăng 2,8%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 4%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số sản xuất quý I/2020 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 28,3%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế và khai thác quặng kim loại cùng tăng 22,4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 14,3%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 8,9%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 8,4%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu quý I/2020 tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước: Phân u rê tăng 3,6%; sữa tươi tăng 3%; alumin tăng 2,7%; ti vi tăng 0,2%; xe máy giảm 0,9%; quần áo mặc thường giảm 3,1%; phân hỗn hợp NPK giảm 3,7%; thép cán giảm 4,3%; thức ăn cho gia súc giảm 4,4%; sắt, thép thô giảm 4,5%; sữa bột giảm 7,1%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 9,9%; ô tô giảm 10,4%; dầu thô khai thác giảm 10,9%; đường kính giảm 17%; bia giảm 18,9%. Một số sản phẩm tăng cao: Linh kiện điện thoại tăng 34,7%; xăng, dầu các loại tăng 17,4%; thép thanh, thép góc tăng 17,2%; bột ngọt tăng 12,3%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 11,3%; điện thoại di động tăng 11,1% (điện thoại thông minh giảm 2,7%); giày, dép da tăng 8,5%; nước máy thương phẩm tăng 8,1%; than sạch tăng 7,9%; điện sản xuất tăng 7,2%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 3/2020 tăng 11,6% so với tháng trước và tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2020, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp ở mức 2,8% so với quý I/2019 (thấp hơn nhiều so với mức tăng 8% của quý I/2019), trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 27,3%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 24,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 22,8%; dệt tăng 13,4%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 12,5%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 9,5%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 2,6%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 2%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 1,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 0,7%; sản xuất kim loại giảm 1%; sản xuất trang phục giảm 3,2%; sản xuất thiết bị điện giảm 4,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 6,6%; sản xuất đồ uống giảm 12,2%.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2020 tăng 24,9% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2019 tăng 15,6%), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: In, sao chép bản ghi các loại tăng 4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 4,5%; sản xuất thiết bị điện giảm 6,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 9,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 16,5%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 39,4%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng thời điểm năm trước: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 27,5%; dệt tăng 36,2%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 45,4%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 47,2%; sản xuất kim loại tăng 48,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 122,5%.
Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I/2020 đạt 78,4% (cùng kỳ năm trước là 72,9%), trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Dệt 115%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 104,6%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác 104,5%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa 103%; sản xuất chế biến thực phẩm 93%; sản xuất thiết bị điện 88,7%.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/3/2020 tăng 1,2% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 1,4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 2,7%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước không đổi và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 2,8%. Tại thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 2,7% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,6%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 0,1%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,4%.
Khu vực doanh nghiệp gặp khó khăn hơn trong quý I/2020 do chịu ảnh hưởng trực tiếp từ dịch Covid-19. Trong 3 tháng đầu năm, cả nước có 29,7 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước; 14,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 1,6%; đáng chú ý là số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn lên tới 18,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 26%. Tuy nhiên, kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy các doanh nghiệp kỳ vọng dịch Covid-19 sẽ kết thúc sớm nên dự báo tình hình sản xuất kinh doanh trong quý II khả quan hơn quý I.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[11]
Trong tháng 3/2020, cả nước có 12.272 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 131,4 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký là 86,2 nghìn lao động, tăng 33,9% về số doanh nghiệp, tăng 35,7% về vốn đăng ký và tăng 17,9% về số lao động so với tháng 2/2020[12]. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 10,7 tỷ đồng, tăng 1,3% so với tháng trước và tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, cả nước còn có 3.423 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 5,7% so với tháng trước và giảm 29,8% so với cùng kỳ năm trước; 2.452 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 46,3% và tăng 78,6%; 2.785 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 27,5% và tăng 48%; 1.316 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 11% và tăng 37,1%; 5.918 doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 167,2% và tăng 59,9%.
Tính chung quý I/2020[13], cả nước có 29,7 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 351,4 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 243,7 nghìn lao động, tăng 4,4% về số doanh nghiệp, giảm 6,4% về vốn đăng ký và giảm 23,3% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong quý I/2020 đạt 11,8 tỷ đồng, giảm 10,4% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 552,4 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 9,1 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong quý I/2020 là 903,8 nghìn tỷ đồng, giảm 17,7% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 14,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 1,6% so với quý I/2019, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong quý I/2020 lên 44,5 nghìn doanh nghiệp, trung bình mỗi tháng có 14,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Theo khu vực kinh tế, quý I/2020 có 426 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước; 8,1 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, tăng 4,2%; 21,2 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, tăng 4,5%. Một số ngành, lĩnh vực hoạt động có số doanh nghiệp thành lập mới tăng: bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 10.015 doanh nghiệp, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2019; xây dựng 3.941 doanh nghiệp, tăng 3,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo 3.685 doanh nghiệp, tăng 2%; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác 2.788 doanh nghiệp, tăng 17,5%; vận tải, kho bãi 1.289 doanh nghiệp, tăng 1,3%; thông tin và truyền thông 932 doanh nghiệp, tăng 15,5%; sản xuất phân phối điện, nước, gas 341 doanh nghiệp, tăng 39,8%; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 316 doanh nghiệp, tăng 9%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 191 doanh nghiệp, tăng 2,1%; khai khoáng 143 doanh nghiệp, tăng 11,7%. Có 6 lĩnh vực có số doanh nghiệp thành lập mới giảm so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác 1.672 doanh nghiệp, giảm 0,4%; kinh doanh bất động sản 1.363 doanh nghiệp, giảm 12%; dịch vụ lưu trú và ăn uống 1.281 doanh nghiệp, giảm 1%; giáo dục và đào tạo 833 doanh nghiệp, giảm 2,2%; nghệ thuật, vui chơi, giải trí 220 doanh nghiệp, giảm 22,5%; hoạt động dịch vụ khác 274 doanh nghiệp, giảm 12,2%.
Trong quý I/2020, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 18,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 26% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể là 12,2 nghìn doanh nghiệp, giảm 20,6%, trong đó có 2.629 doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; 4.343 doanh nghiệp đăng thông báo giải thể và 5.206 doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể với cơ quan thuế.
Trong quý I/2020 có 4,1 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tương đương với cùng kỳ năm trước, trong đó có gần 3,7 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, giảm 1,3%; 62 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, tăng 21,6%. Doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 1,5 nghìn doanh nghiệp; công nghiệp chế biến, chế tạo có 488 doanh nghiệp; xây dựng có 353 doanh nghiệp; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác có 256 doanh nghiệp; dịch vụ lưu trú và ăn uống có 244 doanh nghiệp; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác có 241 doanh nghiệp; kinh doanh bất động sản có 218 doanh nghiệp; vận tải, kho bãi có 169 doanh nghiệp; giáo dục và đào tạo có 164 doanh nghiệp; thông tin và truyền thông có 162 doanh nghiệp. Trong quý I/2020, trên cả nước còn có 11,4 nghìn doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm trước.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2020 cho thấy: Có 20,9% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý I/2020 tốt hơn quý IV/2019; 42% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 37,1% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định[14]. Dự kiến quý II/2020 so với quý I/2020, có 38,8% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 25,9% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 35,3% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định. Trong đó, khu vực doanh nghiệp Nhà nước lạc quan nhất với 77,9% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý II/2020 tốt hơn và giữ ổn định so với quý I/2020; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lần lượt là 74% và 73,8%.
Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2020, có 55,8% số doanh nghiệp cho rằng khả năng cạnh tranh cao của hàng hóa trong nước là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 48% số doanh nghiệp cho rằng do nhu cầu thị trường trong nước thấp; 31,3% số doanh nghiệp cho rằng thiếu nguyên, nhiên, vật liệu; 30,7% số doanh nghiệp cho rằng gặp khó khăn về tài chính; 28,5% số doanh nghiệp cho rằng không tuyển được lao động theo yêu cầu; 26,6% số doanh nghiệp cho rằng lãi suất vay vốn cao; 24,4% số doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 22,6% số doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao; 21,1% số doanh nghiệp cho rằng thiết bị công nghệ lạc hậu.
Về khối lượng sản xuất, có 22,7% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý I/2020 tăng so với quý IV/2019; 39,5% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm và 37,8% số doanh nghiệp cho rằng ổn định[15]. Xu hướng quý II/2020 so với quý I/2020, có 40,3% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 22,8% số doanh nghiệp dự báo giảm và 36,9% số doanh nghiệp dự báo ổn định.
Về đơn đặt hàng, có 19,8% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng quý I/2020 cao hơn quý IV/2019; 38,6% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm và 41,6% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định[16]. Xu hướng quý II/2020 so với quý I/2020, có 36,7% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng tăng lên; 22,8% số doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm và 40,5% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng ổn định.
Về đơn đặt hàng xuất khẩu, quý I/2020 so với quý IV/2019, có 17,9% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu mới cao hơn; 37,5% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới giảm và 44,6% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới ổn định. Xu hướng quý II/2020 so với quý I/2020, có 30,7% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu mới; 23,7% số doanh nghiệp dự kiến giảm và 45,6% số doanh nghiệp dự kiến ổn định.
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 tác động tâm lý người tiêu dùng hạn chế mua sắm nơi công cộng, đi du lịch và ăn uống ngoài gia đình do lo ngại dịch lây lan nên tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Ba giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức giảm đầu tiên trong giai đoạn 2016-2020[17]. Tính chung quý I/2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt mức tăng thấp so với cùng kỳ năm trước (4,7%), cầu tiêu dùng trong dân giảm.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Ba ước tính đạt 390 nghìn tỷ đồng, giảm 4% so với tháng trước và giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 316,1 nghìn tỷ đồng, giảm 1,5% và tăng 4,7%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 33,9 nghìn tỷ đồng, giảm 18,4% và giảm 26,8%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 1,3 nghìn tỷ đồng, giảm 44,7% và giảm 62,3%; doanh thu dịch vụ khác đạt 38,7 nghìn tỷ đồng, giảm 7,1% và giảm 6,5%.
Tính chung quý I/2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 1.246,1 nghìn tỷ đồng, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 1,6% (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,3%).
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa quý I năm nay ước tính đạt 985,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 79,1% tổng mức và tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lương thực, thực phẩm tăng 9,3%; xăng, dầu tăng 8,4%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 7,7%; may mặc tăng 6,6%; phương tiện đi lại tăng 5,4%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 2%. Trong tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, doanh thu bán lẻ hàng hóa quý I vẫn tăng do hình thức mua sắm trực tuyến được người tiêu dùng ưa chuộng trong thời gian gần đây, trong khi nguồn cung hàng hóa dồi dào, không có tình trạng thiếu hàng, sốt giá. Một số địa phương có mức doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Hải Phòng tăng 11%; Hà Nội tăng 9,3%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 8,1%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 8%; Cần Thơ tăng 7,3%; Thanh Hóa tăng 6,9%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống quý I/2020 ước tính đạt 126,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% tổng mức và giảm 9,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 11,3%) do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên nhiều cơ sở kinh doanh nhà hàng, khách sạn không hoạt động cùng với lượng khách du lịch giảm. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống quý I năm nay so với cùng kỳ năm trước giảm ở hầu hết các địa phương, trong đó Khánh Hòa giảm 38,2%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 30,3%; Đà Nẵng giảm 23,7%; Thanh Hóa giảm 20,4%; Hà Nội giảm 20,2%; Cần Thơ giảm 17%; Lâm Đồng giảm 16,8%; Quảng Bình giảm 14,5%; Quảng Ninh giảm 12,4%; Hải Phòng giảm 8,9%.
Doanh thu du lịch lữ hành quý I ước tính đạt 7,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,6% tổng mức và giảm 27,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 13,2%) do nhiều địa điểm tham quan du lịch ngừng hoạt động, lượng khách du lịch trong nước và quốc tế đã hủy tour du lịch do lo ngại dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Một số địa phương có doanh thu du lịch lữ hành quý I giảm so với cùng kỳ năm trước: Thanh Hóa giảm 49,9%; Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 48,3%; Quảng Ninh giảm 47,1%; Khánh Hòa giảm 43,9%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 39,9%; Bình Định giảm 24,4%; Đà Nẵng giảm 19,5%; Hà Nội giảm 18,7%; Hải Phòng giảm 14,9%.
Doanh thu dịch vụ khác quý I/2020 ước tính đạt 126,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,2% tổng mức và tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó doanh thu của Cần Thơ tăng 2,3%; Thái Nguyên tăng 1,2%; Đà Nẵng giảm 1,4%; Hà Nội giảm 1,7%; Hải Phòng giảm 6,3%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 7,4%.
Diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 tác động trực tiếp tới hoạt động vận tải quý I/2020, trong đó vận tải hành khách chịu ảnh hưởng lớn khi lượng khách vận chuyển tháng Ba giảm 21,4% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 3 tháng giảm 6,1% do tác động của các vận động, khuyến cáo về phòng chống dịch bệnh cùng với việc tạm dừng cấp thị thực cho người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam.
Vận tải hành khách tháng Ba ước tính đạt 334,4 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 8,8% so với tháng trước và luân chuyển 14,8 tỷ lượt khách.km, giảm 15,1%. Tính chung quý I/2020, vận tải hành khách đạt 1.190,7 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 6,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,8%) và luân chuyển 55,9 tỷ lượt khách.km, giảm 8% (cùng kỳ năm trước tăng 10%), trong đó vận tải trong nước đạt 1.187,7 triệu lượt khách, giảm 6,1% và 46,4 tỷ lượt khách.km, giảm 3,5%; vận tải ngoài nước đạt 3 triệu lượt khách, giảm 30,3% và 9,6 tỷ lượt khách.km, giảm 24,9%. Xét theo ngành vận tải, tất cả các ngành đường đều bị ảnh hưởng do nhu cầu đi lại của người dân giảm mạnh, vận tải hành khách đường bộ quý I đạt 1.128,3 triệu lượt khách, giảm 6,3% so với cùng kỳ năm trước và 38,5 tỷ lượt khách.km, giảm 7,2%; đường thủy nội địa đạt 47,7 triệu lượt khách, giảm 1,3% và 1,1 tỷ lượt khách.km, giảm 0,4%; đường biển đạt 1,3 triệu lượt khách, giảm 23,2% và 109,4 triệu lượt khách.km, giảm 5,8%; đường sắt đạt 1,5 triệu lượt khách, giảm 27,8% và 0,7 tỷ lượt khách.km, giảm 23,8%; hàng không là ngành chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất bởi dịch Covid-19 khi các hãng tạm dừng khai thác các đường bay quốc tế, vận tải hàng không quý I năm nay đạt 11,9 triệu lượt khách, giảm 8% và 15,6 tỷ lượt khách.km, giảm 9,5% (riêng tháng Ba vận chuyển giảm 28,8% và luân chuyển giảm 35,9%).
Vận tải hàng hóa tháng Ba ước tính đạt 138,2 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 2,9% so với tháng trước và luân chuyển 26,9 tỷ tấn.km, giảm 3,8%. Tính chung quý I/2020, vận tải hàng hóa đạt 435,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 8,6%) và luân chuyển 84,4 tỷ tấn.km, tăng 0,1% (cùng kỳ năm trước tăng 6,5%), trong đó vận tải trong nước đạt 427 triệu tấn, tăng 1,2% và 47,2 tỷ tấn.km, tăng 2,3%; vận tải ngoài nước đạt 8,7 triệu tấn, giảm 4% và 37,2 tỷ tấn.km, giảm 2,6%. Xét theo ngành vận tải, vận tải hàng hóa đường bộ quý I đạt 340,6 triệu tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước và 23,9 tỷ tấn.km, tăng 0,7%; đường thủy nội địa đạt 73,8 triệu tấn, giảm 0,1% và 15,8 tỷ tấn.km, giảm 0,1%; đường biển đạt 19,9 triệu tấn, giảm 0,7% và 42,1 tỷ tấn.km, tăng 0,9%; đường sắt đạt 1,2 triệu tấn, giảm 4,4% và 0,8 tỷ tấn.km, giảm 3,2%; đường hàng không đạt 91,2 nghìn tấn, giảm 2,8% và 1,6 tỷ tấn.km, giảm 21,5%.
Hoạt động viễn thông quý I/2020 nhìn chung ổn định với doanh thu ước tính đạt 98,1 nghìn tỷ đồng, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,2%). Tổng số thuê bao điện thoại tại thời điểm cuối tháng 3/2020 ước tính đạt 129,2 triệu thuê bao, giảm 6% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó số thuê bao di động là 125,5 triệu thuê bao, giảm 5,9% chủ yếu do các nhà mạng tiếp tục thực hiện quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc xử lý sim rác, quản lý thuê bao điện thoại di động và nhu cầu sử dụng điện thoại cố định ngày càng giảm. Số thuê bao truy nhập internet băng rộng cố định tại thời điểm cuối tháng Ba ước tính đạt 15,2 triệu thuê bao, tăng 13% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó thuê bao truy nhập qua hệ thống cáp quang (FTTH) và qua hệ thống cáp truyền hình (CATV) vẫn tăng nhanh, thuê bao truy nhập qua hình thức xDSL tiếp tục giảm.
Số lượng khách quốc tế đến nước ta trong tháng Ba giảm mạnh 63,8% so với tháng trước và giảm 68,1% so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Tính chung 3 tháng đầu năm nay, khách quốc tế đến nước ta đạt gần 3,7 triệu lượt người, giảm 18,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó giảm ở hầu hết các thị trường, mức giảm mạnh nhất tập trung ở các thị trường lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ…
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Ba ước tính đạt 449,9 nghìn lượt người, giảm 63,8% so với tháng trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không giảm 62,3%; bằng đường bộ giảm 65,9%; bằng đường biển giảm 83,6%. So với cùng kỳ năm trước, khách quốc tế đến nước ta trong tháng Ba giảm 68,1%, trong đó khách đến bằng đường hàng không giảm 65,7%; bằng đường bộ giảm 77,9% và bằng đường biển giảm 55,2%; khách đến từ châu Á giảm 77,2%; từ châu Âu giảm 27,5%; từ châu Úc giảm 49,9%; từ châu Mỹ giảm 67,9%; từ châu Phi giảm 37,8%.
Tính chung quý I/2020, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 3.686,8 nghìn lượt người, giảm 18,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 2.991,6 nghìn lượt người, chiếm 81,1% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, giảm 14,9%; bằng đường bộ đạt 551,1 nghìn lượt người, chiếm 15% và giảm 39,4%; bằng đường biển đạt 144,1 nghìn lượt người, chiếm 3,9% và tăng 92,1%.
Trong 3 tháng đầu năm, khách đến từ châu Á đạt 2.674,4 nghìn lượt người, chiếm 72,5% tổng số khách quốc tế đến nước ta, giảm 21,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách đến từ hầu hết các thị trường chính đều giảm mạnh: Trung Quốc đạt 871,8 nghìn lượt người, giảm 31,9% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc 819,1 nghìn lượt người, giảm 26,1%; Nhật Bản 200,3 nghìn lượt người, giảm 14,1%; Đài Loan 192,2 nghìn lượt người, giảm 7,2%; Ma-lai-xi-a 116,2 nghìn lượt người, giảm 19,1%. Bên cạnh đó, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có số khách đến nước ta vẫn tăng trong quý I: Thái Lan 125,7 nghìn lượt người, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước; Cam-pu-chia đạt 120,4 nghìn lượt người, tăng 254,3%; Lào đạt 36,8 nghìn lượt người, tăng 38,5%.
Khách đến từ châu Âu trong quý I ước tính đạt 664,3 nghìn lượt người, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Vương quốc Anh 81,4 nghìn lượt người, giảm 9,4%; Pháp 74,5 nghìn lượt người, giảm 14,7%; Đức 61,5 nghìn lượt người, giảm 14,9%; riêng khách đến từ Liên bang Nga tăng 13,6% với 245 nghìn lượt người. Khách đến từ châu Mỹ ước tính đạt 234 nghìn lượt người, giảm 20,2% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là khách đến từ Hoa Kỳ đạt 172,7 nghìn lượt người, giảm 21,4%. Khách đến từ châu Úc đạt 102,2 nghìn lượt người, giảm 14,4%, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 92,2 nghìn lượt người, giảm 15%. Khách đến từ châu Phi đạt 11,9 nghìn lượt người, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2019.
II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng trong quý I/2020 chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, tăng trưởng tín dụng tính đến thời điểm 20/3/2020 đạt mức thấp nhất so với cùng thời điểm của các năm 2016-2020[18]. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm quý I/2020 tăng trưởng khá với nhiều sản phẩm bảo hiểm phong phú đáp ứng nhu cầu của người dân trước tình hình dịch bệnh; thị trường chứng khoán giảm mạnh với tổng mức huy động vốn cho nền kinh tế giảm 65% so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến thời điểm 20/3/2020, tổng phương tiện thanh toán tăng 1,55% so với cuối năm 2019 (cùng kỳ năm trước tăng 2,54%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 0,51% (cùng kỳ năm 2019 tăng 1,72%); tín dụng của nền kinh tế tăng 0,68% (cùng kỳ năm trước tăng 1,9%), cho thấy các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn, phải thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh do bị ảnh hưởng từ dịch Covid-19.
Trước ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch Covid-19 đối với nền kinh tế, để phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính quốc tế và tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, ngày 16/3/2020, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã quyết định điều chỉnh các mức lãi suất. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 6,0%/năm xuống 5,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 4,0%/năm xuống 3,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại giảm từ 7,0%/năm xuống 6,0%/năm; lãi suất chào mua giấy tờ có giá qua nghiệp vụ thị trường mở giảm từ 4,0%/năm xuống 3,5%/năm. Hiện tại, lãi suất huy động đồng Việt Nam phổ biến ở mức 0,2%-0,8%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,3%-5,0%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,3%-7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 6,6%-7,5%/năm. Mặt bằng lãi suất cho vay đồng Việt Nam phổ biến ở mức 6%-9%/năm đối với ngắn hạn; 9,0%-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm quý I/2020 đạt mức tăng cao, ước tính tăng 16% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 21%, lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 8%. Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, các công ty Bảo hiểm nhân thọ đã cung cấp nhiều gói sản phẩm linh hoạt mang tính thời điểm, tăng gói hỗ trợ nhằm thu thút khách hàng sở hữu các hợp đồng bảo hiểm phù hợp. Trong đó, các gói bảo hiểm như: Corona Care của công ty Bảo hiểm Viễn Đông, Corona ++ dành cho người Việt từ 16-60 tuổi của Bảo hiểm PVI, ENCOVY của Bảo hiểm Sài Gòn – Hà Nội là những chương trình bảo hiểm nhằm mục đích cùng với Chính phủ và cộng đồng đẩy lùi dịch bệnh của các công ty Bảo hiểm.
Thị trường chứng khoán quý I/2020 gặp nhiều bất lợi do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, giá dầu thế giới giảm mạnh và Cục dự trữ Liên bang Mỹ tiếp tục cắt giảm lãi suất. Tổng mức huy động vốn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán trong quý I năm nay chỉ đạt 29,5 nghìn tỷ đồng, giảm 65% so với cùng kỳ năm trước.
Trên thị trường cổ phiếu, tính đến ngày 23/3/2020, chỉ số VNIndex đạt 657,43 điểm, giảm 25,5% so với cuối tháng trước và giảm 31,6% so với cuối năm 2019; mức vốn hóa thị trường đạt 3.302 nghìn tỷ đồng, giảm 24,7% so với cuối năm 2019. Giá trị giao dịch bình quân trong tháng Ba đạt 5.608 tỷ đồng/phiên, tăng 24% so với tháng trước. Tính chung quý I/2020, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 4.676 tỷ đồng/phiên, tăng 0,04% so với bình quân năm 2019. Hiện nay, thị trường cổ phiếu có 756 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết; 883 cổ phiếu đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM với tổng giá trị niêm yết và đăng ký giao dịch đạt gần 1.414 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% so với cuối năm 2019.
Trên thị trường trái phiếu, hiện có 483 mã trái phiếu niêm yết với giá trị niêm yết đạt 1.163 nghìn tỷ đồng, giảm 0,8% so với cuối năm 2019. Giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu tháng Ba đạt 13.863 tỷ đồng/phiên, tăng 32,2% so với tháng trước. Tính chung quý I/2020, giá trị giao dịch bình quân đạt 11.025 tỷ đồng/phiên, tăng 19,7% so với bình quân năm 2019.
Trên thị trường chứng khoán phái sinh, khối lượng giao dịch bình quân trong tháng Ba đạt 168.829 hợp đồng/phiên, tăng 28% so với tháng trước. Tính chung quý I/2020, khối lượng giao dịch bình quân đạt 122.436 hợp đồng/phiên, tăng 38% so với bình quân năm trước. Tại thời điểm cuối tháng 2/2020, số lượng tài khoản giao dịch phái sinh đạt 97.427 tài khoản, tăng 7% so với cuối năm 2019.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I/2020 tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2019, mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020[19] do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 đến tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước quý I/2020 đạt mức khá 13,2% kế hoạch năm[20] mặc dù kế hoạch vốn ngân sách Nhà nước năm 2020 cao hơn 18% so với năm 2019 và tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tín hiệu tích cực phản ánh kết quả việc Chính phủ thực hiện quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 3 tháng ước tính đạt 3,9 tỷ USD, giảm 6,6% so với cùng kỳ năm trước, đây là lần giảm đầu tiên trong giai đoạn 2016-2020[21].
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I/2020 theo giá hiện hành ước tính đạt 367,9 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước và bằng 31% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 112,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 30,5% tổng vốn và tăng 5,8%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 166,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 45,2% và tăng 4,2%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 89,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,3% và giảm 5,4%.
Tốc độ phát triển và cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện
quý I giai đoạn 2016-2020 (Theo giá hiện hành)
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện quý I/2020 ước tính đạt 59,5 nghìn tỷ đồng, bằng 13,2% kế hoạch năm và tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 bằng 13,3% và tăng 3,7%), gồm có: Vốn trung ương quản lý đạt 8,6 nghìn tỷ đồng, bằng 11,1% kế hoạch năm và tăng 32,1% so với cùng kỳ năm trước; vốn địa phương quản lý đạt 50,9 nghìn tỷ đồng, bằng 13,6% kế hoạch năm và tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 33,7 nghìn tỷ đồng, bằng 13% kế hoạch năm và tăng 12,3%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 14,3 nghìn tỷ đồng, bằng 14,4% và tăng 17,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 2,9 nghìn tỷ đồng, bằng 18% và tăng 18,5%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/3/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 8,6 tỷ USD, giảm 20,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 758 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 5,5 tỷ USD, giảm 3,4% về số dự án và tăng 44,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 236 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 1,1 tỷ USD, giảm 18%; có 2.523 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn gần 2 tỷ USD, giảm 65,6%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 455 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 0,71 tỷ USD và 2.068 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 1,25 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I/2020 ước tính đạt 3,9 tỷ USD, giảm 6,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 2,8 tỷ USD, chiếm 73,7% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 405,4 triệu USD, chiếm 10,5%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 337,7 triệu USD, chiếm 8,8%.
Trong quý I/2020, ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 4 tỷ USD, chiếm 72,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 21,4%; các ngành còn lại đạt 346,7 triệu USD, chiếm 6,3%. Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hơn 2 tỷ USD, chiếm 30,7% tổng vốn đăng ký; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí không có vốn đăng ký bổ sung giữ mức 4 tỷ USD, chiếm 60,7%; các ngành còn lại đạt 570,2 triệu USD, chiếm 8,6%. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 699 triệu USD, chiếm 35,7% giá trị góp vốn; ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 441,4 triệu USD, chiếm 22,6%; hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ đạt 176 triệu USD, chiếm 9%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm đạt 174,1 triệu USD, chiếm 8,9%; các ngành còn lại 465,4 triệu USD, chiếm 23,8%.
Trong số 45 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong quý I năm nay, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 4.204,7 triệu USD, chiếm 76% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Trung Quốc 455,9 triệu USD, chiếm 8,2%; Hàn Quốc 284,4 triệu USD, chiếm 5,1%; Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 245,9 triệu USD, chiếm 4,4%; Nhật Bản 120,3 triệu USD, chiếm 2,2%; Đài Loan 64,5 triệu USD, chiếm 1,2%; Hà Lan 37,8 triệu USD, chiếm 0,7%; Ma-lai-xi-a 34,4 triệu USD, chiếm 0,6%.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 3 tháng đầu năm 2020 có 27 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 22,9 triệu USD; có 6 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm 26,4 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) đạt 49,3 triệu USD, trong đó lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 14,7 triệu USD, chiếm 29,9% tổng vốn đầu tư; hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ đạt 12 triệu USD, chiếm 24,4%; công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 9 triệu USD, chiếm 18,3%; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 5,2 triệu USD, chiếm 10,6%; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 5 triệu USD, chiếm 10,2%. Trong quý I/2020 có 13 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Hoa kỳ là nước dẫn đầu với 20,1 triệu USD, chiếm 40,8%; Xin-ga-po 12,8 triệu USD, chiếm 26%; Cam-pu-chia 9,5 triệu USD, chiếm 19,3%; Cuba 5 triệu USD, chiếm 10,1%.
Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tác động tới sản xuất, kinh doanh và hoạt động xuất nhập khẩu, từ đó ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước trong những tháng đầu năm 2020. Chi ngân sách Nhà nước tập trung bảo đảm các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, y tế, quản lý Nhà nước và thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2020 ước tính đạt 311,3 nghìn tỷ đồng, bằng 20,6% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 256,8 nghìn tỷ đồng, bằng 20,3%; thu từ dầu thô 12,1 nghìn tỷ đồng, bằng 34,5%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 42,4 nghìn tỷ đồng, bằng 20,4%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 29,3 nghìn tỷ đồng, bằng 16,5% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 48,9 nghìn tỷ đồng, bằng 21,4%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 54,3 nghìn tỷ đồng, bằng 20%; thu thuế thu nhập cá nhân 28,1 nghìn tỷ đồng, bằng 21,9%; thu thuế bảo vệ môi trường 9,7 nghìn tỷ đồng, bằng 14,4%; thu tiền sử dụng đất 29,7 nghìn tỷ đồng, bằng 30,9%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2020 ước tính đạt 278,1 nghìn tỷ đồng, bằng 15,9% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 201,2 nghìn tỷ đồng, bằng 19%; chi đầu tư phát triển 47,7 nghìn tỷ đồng, bằng 10,1%; chi trả nợ lãi 28,6 nghìn tỷ đồng, bằng 24,2%.
Dịch Covid-19 lây lan mạnh ở các nước đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ đã ảnh hưởng không nhỏ đến kim ngạch xuất, nhập khẩu của nhiều mặt hàng. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng Ba ước tính đạt 39 tỷ USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 115,34 tỷ USD, giảm 0,7%, trong đó xuất khẩu đạt 59,08 tỷ USD, tăng 0,5%; nhập khẩu đạt 56,26 tỷ USD, giảm 1,9%. Xuất siêu quý I năm nay đạt 2,8 tỷ USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 2/2020 đạt 20.854 triệu USD, cao hơn 2.254 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện cao hơn 670 triệu USD; hàng dệt may cao hơn 184 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cao hơn 151 triệu USD; sắt thép cao hơn 146 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ cao hơn 97 triệu USD; thủy sản cao hơn 81 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 3/2020 ước tính đạt 20 tỷ USD, giảm 4,1% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,16 tỷ USD, giảm 1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 13,84 tỷ USD, giảm 5,4%. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu trong tháng Ba có kim ngạch giảm so với tháng trước: Dầu thô giảm 20,8%; sắt thép giảm 20,3%; hàng dệt may giảm 19,4%; giày dép giảm 19,1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Ba giảm 12,1%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 3,7%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 15,4%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh: Hàng dệt may giảm 29%; phương tiện vận tải và phụ tùng giảm 26,1%; sắt thép giảm 16,4%; giày dép giảm 15,9%; thủy sản giảm 11,9%; điện thoại và linh kiện giảm 10,8%.
Tính chung quý I/2020, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 59,08 tỷ USD, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 18,65 tỷ USD, tăng 8,7%, chiếm 31,6% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 40,43 tỷ USD, giảm 2,9%, chiếm 68,4%.
Trong quý I có 8 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 70,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó điện thoại và linh kiện có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, đạt 12,4 tỷ USD, chiếm 20,9% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 8,2 tỷ USD, tăng 16,2%; hàng dệt may đạt 6,5 tỷ USD, giảm 8,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 4,7 tỷ USD, tăng 17,7%; giày dép đạt 3,9 tỷ USD, giảm 1,9%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,5 tỷ USD, tăng 9,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2 tỷ USD, giảm 5,5%; thủy sản đạt 1,6 tỷ USD, giảm 11,2%. Nhìn chung, tỷ trọng xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó: Điện thoại và linh kiện chiếm 92,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 77,2%; giày dép chiếm 75,5%; hàng dệt may 57,1%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản quý I năm nay giảm so với cùng kỳ năm trước: Rau quả đạt 831 triệu USD, giảm 11,5%; cà phê đạt 794 triệu USD, giảm 6,4% (lượng giảm 3,9%); cao su đạt 331 triệu USD, giảm 26,1% (lượng giảm 33%); hạt tiêu đạt 156 triệu USD, giảm 17,6% (lượng giảm 0,9%). Riêng gạo và hạt điều tăng cả lượng và giá trị, gạo đạt 653 triệu USD, tăng 7,9% (lượng tăng 1,1%); hạt điều đạt 644 triệu USD, tăng 0,8% (lượng tăng 14,3%).
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu quý I/2020, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 32 tỷ USD, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước; chiếm 54,2% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (tăng 1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước). Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 20,8 tỷ USD, giảm 0,2% và chiếm 35,3% (giảm 0,2 điểm phần trăm). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 4,6 tỷ USD, giảm 4,5% và chiếm 7,8% (giảm 0,4 điểm phần trăm). Nhóm hàng thủy sản đạt 1,6 tỷ USD, giảm 11,2% và chiếm 2,7% (giảm 0,4 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu quý I/2020, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 15,5 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là Trung Quốc đạt 8,4 tỷ USD, tăng 11,5% (do mặt hàng điện thoại và linh kiện tăng 187,5%). Thị trường EU đạt 7,5 tỷ USD, giảm 14,9%. Thị trường ASEAN đạt 6 tỷ USD, giảm 5,2%. Nhật Bản đạt 4,8 tỷ USD, tăng 3,5%. Hàn Quốc đạt 4,5 tỷ USD, giảm 2,7%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 2/2020 đạt 18.579 triệu USD, cao hơn 79 triệu USD so với số ước tính, trong đó ô tô cao hơn 116 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 56 triệu USD; vải thấp hơn 41 triệu USD; điện thoại và linh kiện thấp hơn 60 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Ba ước tính đạt 19 tỷ USD, tăng 2,3% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,7 tỷ USD, tăng 4,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 11,3 tỷ USD, tăng 1%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng so với tháng trước: Điện thoại và linh kiện tăng 17%; vải tăng 12,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 7,9%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Ba giảm 10,1%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 14%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 7,2%. Một số mặt hàng có kim ngạch giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước: Xăng dầu giảm 58,8%; vải giảm 25,9%; sắt thép giảm 20,4%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 14,2%.
Tính chung quý I/2020, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 56,26 tỷ USD, giảm 1,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 23,08 tỷ USD, giảm 3,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 33,18 tỷ USD, giảm 0,8%.
Trong quý I có 14 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 72,9% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 13,2 tỷ USD (chiếm 23,4% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 7,8 tỷ USD, giảm 8,6%; điện thoại và linh kiện đạt 3,2 tỷ USD, tăng 14,1%; vải đạt 2,4 tỷ USD, giảm 17,7%; chất dẻo đạt 2 tỷ USD, giảm 6,1%; sắt thép đạt 1,9 tỷ USD, giảm 16%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,6 tỷ USD, tăng 8,1%; dầu thô đạt 1,5 tỷ USD; tăng 67,9%; ô tô đạt 1,4 tỷ USD, giảm 24,4%; kim loại thường đạt 1,4 tỷ USD; giảm 7,9%; sản phẩm hóa chất đạt 1,3 tỷ USD, tăng 11,7%; hóa chất đạt 1,2 tỷ USD, giảm 0,9%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 1,1 tỷ USD, giảm 14,5%; xăng dầu đạt 1,02 tỷ USD, giảm 17,6%.
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu quý I, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 52,6 tỷ USD, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 93,5% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu (tăng 0,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước), trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 26,4 tỷ USD, tăng 3,9% và chiếm 46,9% (tăng 2,6 điểm phần trăm); nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt 26,2 tỷ USD, giảm 5,9% và chiếm 46,6% (giảm 2 điểm phần trăm). Nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 3,66 tỷ USD, giảm 10,6% và chiếm 6,5% (giảm 0,6 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu quý I, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 13,3 tỷ USD, giảm 18% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 11,7 tỷ USD, tăng 2,4%. Thị trường ASEAN đạt 7,2 tỷ USD, giảm 8,3%. Nhật Bản đạt 4,9 tỷ USD, tăng 15,8%. Thị trường EU đạt 3,4 tỷ USD, tăng 5,2%. Hoa Kỳ đạt 3,4 tỷ USD, tăng 13%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Hai xuất siêu 2,3 tỷ USD[22]; 2 tháng xuất siêu 1,8 tỷ USD; tháng Ba ước tính xuất siêu 1 tỷ USD. Tính chung quý I/2020, cán cân thương mại hàng hóa tiếp tục xuất siêu 2,8 tỷ USD[23] (cùng kỳ năm trước xuất siêu 1,5 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 4,4 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 7,2 tỷ USD.
Trong quý I/2020, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 3,34 tỷ USD, giảm 19,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ du lịch đạt 2,4 tỷ USD (chiếm 71,9% tổng kim ngạch), giảm 18,6%; dịch vụ vận tải đạt 510 triệu USD (chiếm 15,3%), giảm 31,9%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ quý I ước tính đạt 4,27 tỷ USD, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 2 tỷ USD (chiếm 46,8% tổng kim ngạch), giảm 7%; dịch vụ du lịch đạt 1,4 tỷ USD (chiếm 31,6%), giảm 2,9%. Nhập siêu dịch vụ trong quý I/2020 là 930 triệu USD (cùng kỳ năm trước nhập siêu 335 triệu USD), bằng 27,8% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.
Ảnh hưởng của dịch Covid-19, giá xăng dầu thế giới giảm mạnh và nguồn cung gia cầm dồi dào là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2020 giảm 0,72% so với tháng trước, đây là chỉ số CPI thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020[24]. Tuy nhiên, chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 và bình quân quý I/2020 so với cùng kỳ năm trước đều ở mức cao nhất trong giai đoạn 2016-2020[25], tăng lần lượt 4,87% và 5,56%. Tỷ giá thương mại hàng hóa lần đầu tiên giảm trong 3 năm gần đây, phản ánh giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài không được thuận lợi so với giá nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về Việt Nam.
Trong mức giảm 0,72% của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2020 so với tháng trước có 7/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, trong đó: Nhóm giao thông giảm nhiều nhất với 4,87%, chủ yếu do tác động của điều chỉnh giảm giá xăng, dầu vào thời điểm 29/2/2020 và 15/3/2020 làm giá xăng, dầu giảm 9,83% (tác động làm CPI chung giảm 0,43%) và giá dịch vụ giao thông công cộng giảm[26]. Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,4% do nhu cầu đi lại, du lịch, lễ hội của người dân giảm mạnh bởi ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19[27]. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,43%, trong đó: lương thực tăng 1,09%[28]; thực phẩm giảm 0,89%[29]; ăn uống ngoài gia đình giảm 0,01%. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,25% (giá gas giảm 5,91% do giá gas trong nước điều chỉnh giảm làm CPI chung giảm 0,07% và giá dầu hỏa giảm 12,08%); may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,15%; đồ uống và thuốc lá giảm 0,11%; bưu chính viễn thông giảm 0,06%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có chỉ số giá tăng gồm: thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,09% do giá dịch vụ giúp việc gia đình tăng 0,64% và nhu cầu sử dụng các loại vật phẩm tiêu dùng gia đình[30] trong mùa dịch Covid-19 tăng; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,05%; nhóm giáo dục tăng 0,04%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,16%.
CPI bình quân quý I/2020 so với cùng kỳ năm 2019 tăng 5,56%; CPI tháng 3/2020 tăng 0,34% so với tháng 12/2019 và tăng 4,87% so với cùng kỳ năm 2019. CPI quý I năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước do một số nguyên nhân chủ yếu: (i) Nhu cầu về nhiều loại mặt hàng trong dịp Tết Nguyên đán tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: lương thực tăng 1,51% (tác động làm CPI chung tăng 0,07%), thực phẩm tăng 13,21% (tác động làm CPI chung tăng 2,99%), trong đó: giá thịt lợn tăng 58,81% (đóng góp 2,47% vào mức tăng CPI chung); giá các mặt hàng đồ uống, thuốc lá tăng 1,8%; giá các loại quần áo may sẵn tăng 1,19%; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 2,52% (tác động làm CPI chung tăng 0,04%); (ii) Ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 làm giá rau trong quý I/2020 tăng 4,14% do rau, quả Trung Quốc không xuất được sang Việt Nam; đồng thời làm giá các mặt hàng thuốc y tế, điện sinh hoạt và nước sinh hoạt tăng cao, lần lượt là 1,43%; 9,89% và 4,75%.
Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI quý I/2020, có một số yếu tố góp phần kiềm chế CPI: (i) Giá xăng dầu được điều chỉnh giảm 5 đợt kể từ đầu năm với giá xăng A95 giảm 4.180 đồng/lít, giá xăng E5 giảm 3.830 đồng/lít, giá dầu diesel giảm 3.560 đồng/lít; (ii) Ảnh hưởng của dịch Covid-19 và nhu cầu đi lại, du lịch của người dân sau Tết giảm làm giá của nhóm du lịch trọn gói giảm 1,74% so với cùng kỳ năm trước; giá cước vận tải của các loại phương tiện như tàu hỏa, máy bay giảm[31]; (iii) Các cấp, các ngành tích cực triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để ngăn chặn diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 và ổn định thị trường.
Lạm phát cơ bản tháng 3/2020 giảm 0,06% so với tháng trước và tăng 2,95% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân quý I/2020 tăng 3,05% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
Giá vàng trong nước biến động trái chiều với giá vàng thế giới do các nhà đầu tư trong nước có xu hướng nắm giữ vàng trong thời điểm chứng khoán, bất động sản không ổn định. Bình quân giá vàng thế giới đến ngày 24/3/2020 giảm 1,13% so với tháng 2/2020. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 3/2020 tăng 3,87% so với tháng trước; tăng 11,37% so với tháng 12/2019 và tăng 25,31% so với cùng kỳ năm trước.
Trong bối cảnh thị trường tài chính thế giới có dấu hiệu suy giảm, các nhà đầu tư có xu hướng nắm giữ tiền mặt nên đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới tăng; Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã điều chỉnh lãi suất xuống biên độ 0% – 0,25% và tuyên bố sẽ mua không giới hạn lượng trái phiếu Chính phủ Mỹ nhằm hỗ trợ thị trường tài chính và đối phó với những thiệt hại do dịch bệnh Covid-19 gây ra cho nền kinh tế Mỹ. Trong nước, lượng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dồi dào đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2020 tăng 0,17% so với tháng trước; tăng 0,51% so với tháng 12/2019 và tăng 0,17% so với cùng kỳ năm 2019.
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2020 tăng 4,45% so với quý IV/2019 và tăng 5,97% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp tăng 5,17% và tăng 7,83%; lâm nghiệp tăng 0,06% và giảm 0,1%; thủy sản tăng 2,75% và tăng 1,1%.
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý I/2020 giảm 0,03% so với quý IV/2019 và tăng 1,05% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng tăng 1,36% và tăng 6,35%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,15% và tăng 0,57%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 2,49% và tăng 3,94%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,8% và tăng 2,34%.
Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý I/2020 giảm 0,25% so với quý IV/2019 và tăng 2,28% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá dịch vụ vận tải, kho bãi giảm 2,01% và giảm 1,91%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 0,6% và tăng 2,37%; thông tin và truyền thông giảm 0,03% và tăng 0,49%; giáo dục và đào tạo tăng 0,12% và tăng 4,15%; y tế và trợ giúp xã hội tăng 0,06% và tăng 3,58%.
d) Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý I/2020 giảm 0,28% so với quý IV/2019 và giảm 0,53% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nhóm nông sản, thực phẩm tăng 0,27% và giảm 1,4%; nhóm nhiên liệu giảm 5,51% và giảm 9,25%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác giảm 0,14% và giảm 0,05%. Chỉ số giá xuất khẩu quý I/2020 so với quý IV/2019 và so với cùng kỳ năm trước của một số mặt hàng như sau: Dầu thô giảm 6,59% và giảm 12,49%; xăng dầu giảm 4,12% và giảm 2,22%; cà phê giảm 2,55% và giảm 6,11%; sản phẩm từ cao su tăng 3,88% và tăng 2,27%; chè tăng 2,47% và tăng 6,41%; cao su tăng 2,16% và tăng 5,2%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác tăng 0,49% và tăng 2,4%.
Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá quý I năm nay giảm 0,16% so với quý IV/2019 và tăng 0,08% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nhập khẩu nhóm nông sản, thực phẩm tăng 0,52% và tăng 1%; nhóm nhiên liệu tăng 0,56% và tăng 4,75%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác giảm 0,23% và giảm 0,19%. Chỉ số giá nhập khẩu quý I/2020 của một số mặt hàng: Hóa chất giảm 2,32% so với quý IV/2019 và giảm 5,91% so với cùng kỳ năm trước; kim loại thường khác giảm 1,55% và giảm 0,71%; nguyên phụ liệu thuốc lá giảm 1,36% và giảm 4,07%; ô tô nguyên chiếc các loại giảm 1,05% và giảm 1,05%; khí đốt hóa lỏng tăng 13,2% và tăng 6,31%; sản phẩm từ giấy tăng 8,87% và tăng 11,22%; hàng rau quả tăng 1,59% và tăng 8,15%; than đá tăng 0,65% và tăng 1,95%.
Tỷ giá thương mại hàng hóa[32] quý I/2020 giảm 0,12% so với quý IV/2019 và giảm 0,61% so với cùng kỳ năm trước, lần đầu tiên tỷ giá thương mại hàng hóa giảm trong 3 năm gần đây[33], trong đó tỷ giá thương mại của rau quả giảm 4,69% và giảm 4,5%; xăng dầu giảm 3,49% và giảm 7,05%; hóa chất tăng 2,37% và tăng 6,28%; cao su tăng 2,11% và tăng 8,85%; gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 0,82% và tăng 2,61%.
Tình hình lao động, việc làm quý I/2020 chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thấp kỷ lục, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi tăng cao nhất trong 5 năm trở lại đây[34] do nhu cầu thị trường lao động sụt giảm.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý I/2020 ước tính là 55,3 triệu người, giảm 673,1 nghìn người so với quý trước và giảm 144,2 nghìn người so với cùng kỳ năm 2019 do trong quý thị trường lao động giảm ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cả nước và ở các ngành, nghề lao động. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý I/2019 ước tính đạt 75,4%, giảm 1,2 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, đây là mức thấp nhất 10 năm qua. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động quý I/2020 ước tính là 48,9 triệu người, giảm 351,2 nghìn người so với quý trước và tăng 4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Lao động nam 26,9 triệu người, chiếm 55% tổng số và lao động nữ 22 triệu người, chiếm 45%; khu vực thành thị 16,5 triệu người, chiếm 33,7% và khu vực nông thôn là 32,4 triệu người, chiếm 66,3%.
Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong quý I/2020 ước tính là 54,2 triệu người, bao gồm 18,2 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 33,5% tổng số (giảm 1,7 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước); khu vực công nghiệp và xây dựng 16,5 triệu người, chiếm 30,5% (tăng 1,3 điểm phần trăm); khu vực dịch vụ 19,5 triệu người, chiếm 36% (tăng 0,4 điểm phần trăm).
Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước quý I/2020 ước tính là 2,02%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 2,95%; khu vực nông thôn là 1,57%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý I/2020 là 2,22%, trong đó khu vực thành thị là 3,18%; khu vực nông thôn là 1,73%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) quý I/2020 ước tính là 7,01%, trong đó khu vực thành thị là 9,91%; khu vực nông thôn là 5,77%.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I/2020 ước tính là 2%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 0,97%; khu vực nông thôn là 2,52% (tỷ lệ thiếu việc làm của quý I/2019 tương ứng là 1,17%; 0,6%; 1,45%).
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản[35] quý I/2020 ước tính là 55,3%, trong đó khu vực thành thị là 47,3%; khu vực nông thôn là 61,7%. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản quý I/2019 tương ứng là 55,9%; 47,9%; 62,2%.
Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương trong quý I/2020 ước tính là 7,4 triệu đồng/tháng, tăng hơn 616 nghìn đồng so với quý trước và tăng 476,5 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu nhập của lao động nam là 7,8 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 6,8 triệu đồng/tháng, lao động thành thị là 8,7 triệu đồng/tháng, lao động nông thôn là 6,5 triệu đồng/tháng.
Đời sống dân cư tháng Ba gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và do tác động của đầu kỳ giáp hạt. Trong tháng, cả nước có 5 tỉnh phát sinh thiếu đói là Yên Bái, Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu và Lạng Sơn với hơn 8,6 nghìn hộ thiếu đói, tương ứng với 36,3 nghìn nhân khẩu thiếu đói, gấp 9 lần số hộ thiếu đói, gấp 11 lần số nhân khẩu thiếu đói so với tháng trước và cùng gấp 5 lần số hộ và số nhân khẩu thiếu đói so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I, cả nước có 12,4 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 56,4% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 49,7 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 52,8%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 243,3 tấn gạo.
Công tác an sinh xã hội được chính quyền các cấp quan tâm thực hiện. Theo báo cáo sơ bộ, tổng kinh phí cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo trong 3 tháng đầu năm là hơn 4,8 nghìn tỷ đồng (trong đó quà cho đối tượng chính sách, người có công là 2,9 nghìn tỷ đồng; người nghèo là 1,3 nghìn tỷ đồng; cứu đói, cứu trợ khác là 0,6 nghìn tỷ đồng), hơn 17,5 triệu thẻ BHYT/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng thụ hưởng.
Công tác giáo dục, đào tạo đang gặp khó khăn khi dịch Covid-19 bùng phát và diễn biến phức tạp trong những tháng đầu năm. Để phòng chống dịch lây lan, đảm bảo sức khỏe cho người dân, hầu hết các địa phương trên cả nước cho học sinh và sinh viên nghỉ học (Bao gồm 5 triệu trẻ em bậc mầm non; 17 triệu học sinh phổ thông và trên 1,5 triệu học sinh, sinh viên đại học, cao đẳng, trung cấp[36]). Quyết định cho học sinh và sinh viên nghỉ học không những ảnh hưởng đến kế hoạch, nền nếp dạy và học của nhà trường và học sinh, sinh viên mà còn ảnh hưởng đến các bậc phụ huynh, đặc biệt là phụ huynh học sinh ở cấp mầm non và tiểu học.
Trước tình hình trên, ngành Giáo dục và Đào tạo đã điều chỉnh khung kế hoạch thời gian năm học 2019-2020 phù hợp với diễn biến tình hình dịch bệnh; rà soát, tinh giản nội dung dạy học, triển khai các hình thức dạy học qua internet và trên truyền hình đảm bảo nội dung chương trình và kiến thức cho học sinh, đặc biệt là học sinh cuối cấp.
Đối với giáo dục nghề nghiệp, tính đặc thù là học lý thuyết tại trường kết hợp với thực hành tại xưởng, nhà máy, xí nghiệp nhưng do yêu cầu phòng, chống dịch Covid-19 cần tránh tập trung đông người nên việc tổ chức đào tạo nghề cũng như công tác tuyển sinh thời điểm này gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến kế hoạch đào tạo trong năm học. Ngoài ra, dịch bùng phát còn ảnh hưởng đến đời sống của nhiều giáo viên; mất cân đối thu chi ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; nhiều hoạt động đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cũng như các hoạt động phong trào hỗ trợ học sinh, sinh viên bị gián đoạn, chậm tiến độ.
Trong tháng (19/2-18/3/2020), cả nước có 4.986 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 879 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 16 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút và 1.097 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 17 trường hợp dương tính. Tính chung 3 tháng đầu năm, cả nước có 19,7 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (1 trường hợp tử vong); 4.019 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 67 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút; 1 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu và 2.427 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 76 trường hợp dương tính.
Dịch Covid-19 trên thế giới diễn biến ngày càng phức tạp[37]. Trước tình hình đó, Việt Nam huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, “tăng cường tốc độ ứng phó” tình hình dịch bệnh. Tính đến 7h30 ngày 27/3/2020 có 153 trường hợp mắc (17 trường hợp đã được chữa khỏi).
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/3/2020 là 210,3 nghìn người; số người đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 97.106 người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 98.622 người.
Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Ba xảy ra 4 vụ với 20 người bị ngộ độc (3 người tử vong). Tính chung 3 tháng đầu năm, cả nước xảy ra 15 vụ với 242 người bị ngộ độc (5 người tử vong).
Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 nhiều địa phương thể hiện tinh thần khẩn trương, nghiêm túc trong việc dừng các lễ hội lớn cũng như các hoạt động tụ tập đông người. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục được triển khai rộng khắp trên cả nước đã tạo dựng được môi trường văn hóa lành mạnh, giúp người dân có điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống, đồng thời góp phần gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Một số hoạt động thể thao được lùi thời gian tổ chức do ảnh hưởng của dịch Covid-19, trong đó có hoạt động Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 2020. Về thể thao thành tích cao của Việt Nam, trong 3 tháng đầu năm giành được nhiều kết quả nổi bật: Đội tuyển Cử tạ Việt Nam giành 13 huy chương vàng, 6 huy chương bạc và 2 huy chương đồng tại giải Vô địch cử tạ thanh thiếu niên và trẻ châu Á 2020; giành 10 huy chương vàng, 2 huy chương bạc và 2 huy chương đồng tại giải Vô địch cử tạ Cúp thế giới; giành được 1 huy chương đồng tại giải Cúp Thể dục dụng cụ thế giới; giành được 1 huy chương đồng tại giải Boxing vòng loại Olympic khu vực châu Á; giành 3 huy chương vàng, 3 huy chương bạc và 2 huy chương đồng tại giải Cúp bắn cung châu Á. Tính chung quý I/2020, đoàn thể thao Việt Nam đã có 5 suất chính tham dự Olympic Tokyo 2020 gồm các môn: Bắn cung, boxing, thể dục dụng cụ và bơi.
Trong tháng (từ 15/2 đến 14/3), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1.101 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 621 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 480 vụ va chạm giao thông, làm 514 người chết, 315 người bị thương và 473 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Ba giảm 8,9% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 0,3% và số vụ va chạm giao thông giảm 18,5%); số người chết giảm 6,4%; số người bị thương giảm 20,3% và số người bị thương nhẹ giảm 18%. Đáng lưu ý là trong tháng đã xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng: Vụ tai nạn xảy ra ngày 23/2 tại Bình Dương giữa 2 xe máy đã làm 1 người chết và 2 người bị thương; vụ tai nạn ô tô xảy ra ngày 27/2 tại Bà Rịa – Vũng Tàu làm 1 người chết và 6 người bị thương; vụ tai nạn xảy ra ngày 3/3 tại thành phố Hồ Chí Minh giữa xe tải và xe container làm 3 người chết; vụ tai nạn xảy ra ngày 4/3 tại Bạc Liêu giữa xe buýt và xe đạp làm 3 người chết ; vụ tai nạn xảy ra ngày 8/3 tại Hải Phòng giữa xe đầu kéo và xe máy làm 2 người chết; vụ tai nạn xảy ra ngày 8/3 tại Nghệ An giữa xe tải và xe máy làm 2 người chết.
Tình hình tai nạn giao thông trong 3 tháng đầu năm có nhiều cải thiện do hiệu quả của Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Trong quý I/2020, trên địa bàn cả nước xảy ra 3.469 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 1.942 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 1.527 vụ va chạm giao thông, làm 1.639 người chết, 1.004 người bị thương và 1.565 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 3 tháng đầu năm 2020 giảm 13,9% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 9,6%; số vụ va chạm giao thông giảm 18,9%); số người chết giảm 14%; số người bị thương giảm 17% và số người bị thương nhẹ giảm 19%. Bình quân 1 ngày trong 3 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 38 vụ tai nạn giao thông, gồm 21 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 17 vụ va chạm giao thông, làm 18 người chết, 11 người bị thương và 17 người bị thương nhẹ.
Thiệt hại do thiên tai trong tháng Ba chủ yếu do ảnh hưởng của gió mạnh trên biển, mưa đá, mưa lớn, giông lốc, xâm nhập mặn và sạt lở sụt lún đất làm 9 người chết và 17 người bị thương, gần 24,3 nghìn ha lúa và hơn 6 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; 18 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 7,3 nghìn ngôi nhà bị ngập, sạt lở và tốc mái. Theo báo cáo sơ bộ từ các địa phương, tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong tháng là 758,8 tỷ đồng. Một số địa phương chịu thiệt hại nhiều do thiên tai như: Cà Mau 5 người chết, 1.245 ha lúa và hoa màu bị hư hỏng, 11 ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng, thiệt hại về tài sản ước tính 533 triệu đồng; Hà Giang 2 người chết và 10 người bị thương; Tiền Giang 4,2 nghìn ha lúa và 5,6 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng, thiệt hại về tài sản ước tính 245,5 tỷ đồng; Bến Tre hơn 4,6 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng, thiệt hại về tài sản ước tính 113,4 tỷ đồng. Tính chung 3 tháng đầu năm, thiên tai làm 9 người chết; 18 người bị thương; 39,3 nghìn ha lúa và gần 7 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; 24 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; hơn 23 nghìn ngôi nhà bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong quý I ước tính gần 934,4 tỷ đồng, gấp 9 lần so với cùng kỳ năm 2019.
Trong tháng Ba, cơ quan chức năng đã phát hiện 1.179 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 1.102 vụ với tổng số tiền phạt là 41,3 tỷ đồng. Tính chung 3 tháng đầu năm đã phát hiện 2.545 vụ vi phạm môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 2.246 vụ với tổng số tiền phạt 58,5 tỷ đồng.
Trong tháng (từ ngày 16/2 đến ngày 15/3), trên địa bàn cả nước xảy ra 279 vụ cháy, nổ, làm 10 người chết và 16 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính gần 97 tỷ đồng. Tính chung 3 tháng đầu năm (từ ngày 16/12/2019 đến ngày 15/3/2020), cả nước xảy ra 791 vụ cháy, nổ, làm 25 người chết và 61 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính là 197,4 tỷ đồng.
Khái quát lại, trong bối cảnh dịch Covid-19 bùng phát mạnh mẽ, diễn biến phức tạp trên toàn cầu, kinh tế thế giới suy giảm nhanh và ngày càng nghiêm trọng, bức tranh kinh tế – xã hội Việt Nam quý I/2020 duy trì được ổn định là nhờ sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các cấp, các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước. Kinh tế quý I năm nay tuy chỉ đạt mức tăng trưởng 3,82%, thấp nhất trong 10 năm qua nhưng trong bối cảnh hiện nay, đây là mức tăng trưởng khá so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn và dịch bệnh nhưng duy trì được mức tăng trưởng dương. Công nghiệp chế biến, chế tạo tuy không tăng cao nhưng tiếp tục giữ vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quý I. Cung cầu hàng hóa trong nước được bảo đảm, tiêu dùng và xuất khẩu tăng nhẹ. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, bước sang quý II, kinh tế – xã hội Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là nền kinh tế nước ta có độ mở lớn nên chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi tình hình kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, khó lường. Dịch Covid-19 đang diễn biến rất nhanh, khó dự báo thời điểm đỉnh dịch và thời điểm kết thúc, có nguy cơ ảnh hưởng nặng nề đến tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Doanh nghiệp đứng trước nguy cơ thiếu nguyên liệu sản xuất, thu hẹp quy mô và tạm dừng hoạt động. Các ngành thương mại, du lịch, vận tải và xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do chịu tác động trực tiếp của dịch bệnh. Áp lực kiểm soát lạm phát, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm tăng cao sẽ ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Do đó, kinh tế Việt Nam năm 2020 đối mặt với nhiều khó khăn, việc đạt mục tiêu tăng trưởng 6,8% là thách thức lớn, cần có sự chung sức, đồng lòng của Chính phủ, doanh nghiệp và người dân, sự hỗ trợ và chia sẻ gánh vác trách nhiệm giữa các thực thể trong nước trong giai đoạn khó khăn này. Trước mắt, cần thực hiện quyết liệt các giải pháp phòng, chống dịch Covid-19, không để dịch lây lan, ưu tiên cao nhất cho ngăn chặn và dập dịch sớm nhất có thể, bảo đảm an toàn sức khỏe cho người dân. Đồng thời, tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực hộ kinh doanh cá thể bị ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 để tìm thị trường nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu, phụ tùng, linh kiện thay thế, tháo gỡ khó khăn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh,; có chính sách đặc biệt hỗ trợ cho các ngành nông nghiệp, giao thông, du lịch; thực hiện chính sách thuế như miễn, dãn, khoanh nợ, giảm thuế xuất/nhập khẩu; trợ cấp việc làm và bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Đồng thời, vận động người dân ưu tiên dùng hàng trong nước, ủng hộ doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trong giai đoạn khó khăn.
Hai là, tập trung xử lý các điểm nghẽn, nút thắt về đất đai, thủ tục hành chính, thể chế để đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa, nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế như mở rộng Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, Nội Bài, xây dựng mới Cảng hàng không quốc tế Long Thành, Đường cao tốc Bắc – Nam…
Ba là, triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp phòng, chống dịch tả lợn châu Phi, không để phát sinh ổ dịch mới, khuyến khích các cơ sở, doanh nghiệp chăn nuôi lớn, có kỹ thuật, kinh nghiệm phòng chống dịch bệnh đầu tư tái đàn phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và giảm giá thịt lợn góp phần kiểm soát lạm phát. Tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do châu Âu – Việt Nam (EVFTA) thúc đẩy sản xuất, đặc biệt là các mặt hàng thủy sản, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ. Khuyến khích đầu tư các vùng trồng cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm, trồng và chăm sóc theo quy trình kỹ thuật đem lại hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo truy xuất nguồn gốc phục vụ nguồn cung nông sản xuất khẩu vào thị trường các nước châu Âu.
Bốn là, tăng khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước. Quan tâm khai thác, thúc đẩy thị trường trong nước phát triển, đáp ứng nội nhu của nền kinh tế; có chính sách đưa hàng hóa Việt Nam thay thế hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Nâng cao tính phù hợp và tiện ích của hệ thống bán lẻ, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Thực hiện hiệu quả chương trình “Hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam”.
Năm là, điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, hỗ trợ sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các tổ chức tín dụng đáp ứng đủ nhu cầu vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các ngành hàng có tính mùa vụ, gặp khó khăn trong tiêu thụ. Cần theo dõi sát diễn biến giá cả các mặt hàng trong và ngoài nước phục vụ hoạt động sản xuất và tiêu dùng để có các biện pháp điều hành hợp lý nhằm bình ổn thị trường.
Sáu là, theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, chủ động phương án phòng chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ, sạt lở, tác động của hạn hán, xâm nhập mặn nhằm hạn chế tối đa thiệt hại. Thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm. Thực hiện tốt công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Tăng cường công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ./.
[1] Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định tăng trưởng toàn cầu sẽ thấp hơn nhiều so với mức 2,9% của năm 2019 và cho rằng khó dự đoán tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm sâu đến mức nào trong năm 2020. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã hạ mức dự báo thấp hơn 0,5 điểm phần trăm so với dự báo hồi tháng 11/2019, xuống còn 2,4% cho tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2020. Ngân hàng Thế giới (WB) cũng dự báo mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 chỉ đạt 2,4%, mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoàng tài chính toàn cầu 2008-2009.
[2] Tốc độ tăng GDP quý I các năm 2011-2020 lần lượt là: Năm 2011 tăng 5,90%; năm 2012 tăng 4,75%; năm 2013 tăng 4,76%; năm 2014 tăng 5,06%; năm 2015 tăng 6,12%; năm 2016 tăng 5,48%; năm 2017 tăng 5,15%; năm 2018 tăng 7,45%; năm 2019 tăng 6,82%; năm 2020 tăng 3,82%.
[3] Tốc độ tăng/giảm giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp quý I các năm 2011-2020 lần lượt là: Năm 2011 tăng 3,65%; năm 2012 tăng 2,66%; năm 2013 tăng 2,01%; năm 2014 tăng 2,03%; năm 2015 tăng 1,58%; năm 2016 giảm 2,69%; năm 2017 tăng 1,38%; năm 2018 tăng 3,97%; năm 2019 tăng 1,93%; năm 2020 giảm 1,17%.
[4] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I các năm 2011-2020 lần lượt là: Năm 2011 tăng 13,31%; năm 2012 tăng 8,74%; năm 2013 tăng 4,38%; năm 2014 tăng 5,97%; năm 2015 tăng 9,70%; năm 2016 tăng 8,94%; năm 2017 tăng 8,60%; năm 2018 tăng 14,30%; năm 2019 tăng 11,52%; năm 2020 tăng 7,12%.
[5] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành xây dựng quý I các năm 2011-2020 lần lượt là: Năm 2011 tăng 0,35%; năm 2012 tăng 1,18%; năm 2013 tăng 4,76%; năm 2014 tăng 5,93%; năm 2015 tăng 5,60%; năm 2016 tăng 8,60%; năm 2017 tăng 7,60%; năm 2018 tăng 6,80%; năm 2019 tăng 6,68%; năm 2020 tăng 4,37%.
[6] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ quý I các năm 2011-2020 lần lượt là: Năm 2011 tăng 6,77%; năm 2012 tăng 5,95%; năm 2013 tăng 5,89%; năm 2014 tăng 5,90%; năm 2015 tăng 5,68%; năm 2016 tăng 5,98%; năm 2017 tăng 6,36%; năm 2018 tăng 6,65%; năm 2019 tăng 6,50%; năm 2020 tăng 3,27%.
[7] Hà Nội, Ninh Bình, Hòa Bình, Bắc Ninh và Hà Nam.
[8] Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Quảng Nam và Kon Tum.
[9] Tính đến ngày 15/3/2020, trị giá xuất khẩu cá da trơn sang thị trường Mỹ đạt 62,1 triệu USD, giảm 20,1% so với cùng kỳ năm trước; thị trường Trung Quốc đạt 52,8 triệu USD, giảm 44,7%; thị trường Anh đạt 11,5 triệu USD, giảm 34,1%, thị trường Đức đạt 6,2 triệu USD, giảm 24,6%.
[10] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I so với cùng kỳ năm trước giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: Năm 2016 tăng 8,94%; năm 2017 tăng 8,6%; năm 2018 tăng 14,3%; năm 2019 tăng 11,52%; năm 2020 tăng 7,12%.
[11] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[12] So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp giảm 1,6%; số vốn đăng ký tăng 2,5%; số lao động đăng ký giảm 43,9%.
[13] Không tính 1 doanh nghiệp tại Hà Nội đăng ký thành lập mới thuộc lĩnh vực kinh doanh bất động sản trong tháng 1/2020 có vốn đăng ký 144 nghìn tỷ đồng.
[14] Chỉ số tương ứng của quý IV/2019: Có 46,7% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý trước; 17% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 36,3% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định.
[15] Chỉ số tương ứng của quý IV/2019: Có 48% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp tăng so với quý trước; 17,4% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm và 34,6% số doanh nghiệp cho rằng ổn định.
[16] Chỉ số tương ứng của quý IV/2019: Có 43,2% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng tăng so với quý trước; 16,7% số doanh nghiệp có đơn đăt hàng giảm và 40,1% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng ổn định.
[17] Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Ba so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020 lần lượt là: 10,4%; 12,2%; 11,4%; 12,3%; – 0,8%.
[18] Tăng trưởng tín dụng tính đến thời điểm 20/3 các năm 2016-2020 lần lượt là: Năm 2016 tăng 1,54%; năm 2017 tăng 2,81%; năm 2018 tăng 2,23%; năm 2019 tăng 1,9%; năm 2020 tăng 0,68%.
[19] Tốc độ tăng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I so với cùng kỳ năm trước các năm giai đoạn 2016-2020: Năm 2016 tăng 10,9%; năm 2017 tăng 9,5%; năm 2018 tăng 10%; năm 2019 tăng 9,1%; năm 2020 tăng 2,2%.
[20] Vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước quý I/2019 bằng 13,3% kế hoạch năm.
[21] Vốn đầu tư thực hiện quý I các năm 2016-2020 lần lượt là: 3,5 tỷ USD; 3,6 tỷ USD; 3,9 tỷ USD; 4,1 tỷ USD; 3,9 tỷ USD.
[22] Ước tính tháng Hai xuất siêu 100 triệu USD.
[23] Trong đó, quý I/2020 xuất siêu sang EU đạt 4,1 tỷ USD, giảm 26,3% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 4,9 tỷ USD, giảm 43,5%; nhập siêu từ Hàn Quốc 7,2 tỷ USD, tăng 6%; nhập siêu từ ASEAN 1,2 tỷ USD, giảm 20,4%.
[24] Tốc độ tăng/giảm CPI tháng Ba so với tháng trước của các năm giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: tăng 0,57%; tăng 0,21%; giảm 0,27%; giảm 0,21%; giảm 0,72%.
[25] Tốc độ tăng CPI tháng Ba so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020 lần lượt là: 1,69%; 4,65%; 2,66%; 2,7%; 4,87%. Tốc độ tăng CPI bình quân quý I so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020 lần lượt là: 1,25%; 4,96%; 2,82%; 2,63%; 5,56%.
[26] Giá vé máy bay giảm 41,14%; giá vé tàu hỏa giảm 11,71%; giá vé tắc xi giảm 0,07%.
[27] Giá các tua du lịch trong nước giảm 4,96%, du lịch ngoài nước giảm 4,47%; giá khách sạn, nhà nghỉ giảm 1,58%.
[28] Chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng, dự trữ gạo của người dân và giá gạo xuất khẩu tăng, giá gạo tháng 3/2020 tăng 1,39% so với tháng trước.
[29] Trong đó, giá thịt lợn trong tháng giảm 0,02%; giá các loại thịt gia cầm tươi sống giảm 4,59%, giá trứng gia cầm giảm 1,97%; giá thủy sản tươi sống giảm 1,2%; giá rau tươi giảm 0,79%. Bên cạnh đó, giá các loại quả tươi giảm 1,91% do hoạt động xuất khẩu sang Trung Quốc bị hạn chế.
[30] Giá xà phòng và chất tẩy rửa tăng 0,09%, giấy vệ sinh tăng 0,23%, đồ điện tăng 0,08%.
[31] Giá vé máy bay quý I/2020 giảm 16,2% so với cùng kỳ năm trước.
[32] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.
[33] Tỷ giá thương mại quý I so với cùng kỳ của các năm 2018-2020 lần luợt là: tăng 0,07%; tăng 2,27%; giảm 0,61%.
[34] Tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi quý I các năm 2016-2020 lần lượt là: Năm 2016 là 1,76%; năm 2017 là 1,82%; năm 2018 là 1,52%; năm 2019 là 1,17%; năm 2020 là 2%.
[35] Lao động có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp bao gồm những người không làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản và thuộc một trong ba nhóm sau: (i) người làm công ăn lương thuộc khu vực chính thức không được ký hợp đồng lao động hoặc có hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực chính thức và thành viên hợp tác xã không có bảo hiểm xã hội bắt buộc; (ii) chủ cơ sở, lao động tự làm, lao động làm công ăn lương và lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực phi chính thức; (iii) lao động tự làm phục vụ nhu cầu tự tiêu dùng của hộ gia đình và lao động làm thuê trong các hộ gia đình.
[36] Chỉ tính sinh viên cao đẳng và trung cấp sư phạm.
[37] Tính đến 7h30 ngày 27/3/2020 trên thế giới có 529,5 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (23.968 trường hợp tử vong).
Tại Hội nghị Thường trực Chính phủ ngày 15/9/2024, trình bày báo cáo về tình hình thiệt hại do cơn bão số 3 (bão Yagi) gây ra và các giải pháp khắc phục hậu quả mưa bão, hỗ trợ phục hồi sản xuất kinh doanh, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, Bão Yagi và hoàn lưu sau bão gây thiệt hại 40.000 tỷ đồng cho các địa phương miền Bắc, khiến GDP năm 2024 có thể thấp hơn 0,15% so với kịch bản trước đó.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phác thảo những nét vẽ đầu tiên của Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, theo đó, trong năm cuối thực hiện Kế hoạch 5 năm, tăng trưởng kinh tế dự kiến đạt khoảng 6,5-7%.
Ngày 07/3/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 03/2024/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 18/2022/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025.
Kinh tế Việt Nam năm 2024 đã đi được một nửa chặng đường với nhiều mảng sáng đậm nét, tạo đà tăng trưởng cho các quý tiếp theo. Đây là kết quả của sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của các Bộ, ngành, địa phương.
(Chinhphu.vn) - Kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2024 của nước ta tiếp tục xu hướng tích cực, quý sau tốt hơn quý trước; các ngành, lĩnh vực đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo đà tăng trưởng cho các quý tiếp theo.
(Chinhphu.vn) - Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng năm 2024 tiếp tục xu hướng tích cực, mặc dù còn nhiều khó khăn. Nhiều lĩnh vực đạt kết quả cao. Kinh tế cơ bản tiếp tục duy trì đà phát triển tích cực ở cả 3 khu vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ.
Đến thời điểm tháng 3/2024, hầu hết các tổ chức quốc tế đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024. Cụ thể, Liên hợp quốc (UN)[1] nhận định trong bối cảnh rủi ro và bất ổn kéo dài, tăng trưởng GDP toàn cầu dự báo sẽ chậm lại từ mức 2,7% năm 2023 xuống 2,4% vào năm 2024; Ngân hàng Thế giới (WB)[2] cùng nhận định tăng trưởng toàn cầu năm 2024 đạt 2,4%, giảm so với mức 2,6% trong năm 2023;
Năm 2023 với sự nỗ lực trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và sự tích cực, chủ động trong các hoạt động xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức đa dạng, Hải Phòng đã trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và là địa phương thuộc nhóm dẫn đầu cả nước.
Năm 2022 là năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và kế hoạch 5 năm 2021-2025; là năm mà Hà Tĩnh thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thách thức. Dịch COVID-19 bùng phát mạnh sau Tết Nguyên đán; tác động xung đột dựa Nga - Ukraine làm giá xăng, dầu, nguyên vật liệu biến động thiếu ổn định; sản xuất ngành công nghiệp bị ảnh hưởng do cung thị trường thép tiêu thụ chậm đã kéo theo sự sụt giảm về sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ lực; lãi suất ngân hàng tăng cao trong những tháng cuối năm; trong sản xuất nông nghiệp chịu tác động bởi dịch bệnh, thời tiết diễn biến khó lường... đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
Mặc dù nền kinh tế của tỉnh nhà gặp khó khăn, song với sự tập trung cao của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng và thi công các công trình dự án, nhất là các dự án trọng điểm. Bằng sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của người dân, Doanh nghiệp. Hà Tĩnh đã đạt được những kết khá tích cực; các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm, đời sống người dân được bảo đảm; Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
1. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP)
Về quy mô kinh tế: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) của Hà Tĩnh trong năm 2022 ước đạt trên 92.960 tỷ đồng, xếp thứ 30/63 tỉnh, thành phố trong cả nước; GRDP bình quân đầu người ước đạt 70,47 triệu đồng/năm (tăng 3,77 triệu đồng/người/năm so với năm 2021), cao nhất khu vực Bắc Miền Trung và xếp thứ 9/14 các tỉnh Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung.
Về tốc độ tăng trưởng: Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ tạo nên nền tảng vững chắc cho ổn định kinh tế vĩ mô mà còn bảo đảm việc làm, thu nhập, tạo nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Ước năm 2022, Tổng giá trị sản phẩm trong tỉnh (GRDP) theo giá so sánh tăng 3,98% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 0,83%, đóng góp 0,11 điểm %; khu vực Công nghiệp, xây dựng giảm 3,23%, làm giảm 1,46 điểm %, (riêng ngành Công nghiệp giảm 8,66% làm giảm 3,29 điểm %); khu vực Dịch vụ tăng 11,73% đóng góp 3,74 điểm %; thuế sản phẩm trừ trở cấp sản phẩm tăng 17,97%, đóng góp 1,59 điểm % vào mức tăng trưởng chung.
Trong 21 nhóm ngành kinh tế cấp I thì đã có 18 nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng dương, trong đó có những ngành có mức tăng trưởng khá cao như: Ngành xây dựng tăng 24,88%; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 14,59%; ngành dịch vụ vận tải kho bãi tăng 14,36%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 61,07%..vv. Tuy nhiên vẫn có 4 nhóm ngành công nghiệp không có tăng trưởng và làm giảm 3,29 điểm % vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Nhìn vào bức tranh kinh tế của Hà Tĩnh cho thấy, đây là năm thứ 2 của kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021-2025 mà Hà Tĩnh chúng ta có mức tăng trưởng không đạt kế hoạch đề ra.
Về nguyên nhân chính dẫn đến nền kinh tế Hà Tĩnh có mức tăng trưởng thấp là do: (1) Sản xuất ngành nông nghiệp chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, thời tiết cực đoan, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi diễn biến phức tạp; cơ cấu lại ngành nông nghiệp chưa thực sự gắn với phát triển kinh tế nông thôn. (2) Sản xuất ngành công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn; tính từ tháng 7/2022, sản lượng sản xuất sản phẩm từ Công ty Formosa tiếp tục giảm. Cụ thể, ước năm 2022 sản lượng than cốc giảm 189 ngàn tấn, phôi thép giảm 650 ngàn tấn, thép giảm 910 ngàn tấn so với cùng kỳ năm 2021; bên cạnh sản lượng giảm điện sản xuất của Công ty Formosa (giảm 932 triệu KWh) thì tổ máy số 1 của Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 đến nay vẫn chưa hoạt động trở lại đã làm giảm 2171 triệu KWh. Và đây là 2 nguyên nhân chính dẫn đến Hà Tĩnh đạt tăng trưởng không như kỳ vọng.
Nếu tính chung giai đoạn 5 năm trở lại đây từ 2018 đến 2022 Hà Tĩnh có nhiều biến động trong tăng trưởng kinh tế, trong giai đoạn này tăng trưởng của Hà Tĩnh chịu ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19 và sự sụt giảm sản lượng sản xuất của ngành công nghiệp trong năm 2022. Tốc độ tăng GRDP bình quân giai đoạn 2018-2022 tăng 8,03%/năm, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,29%/năm; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 13,27%/năm; khu vực dịch vụ tăng 4,77%/năm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 8,31%/năm. Như vậy, việc ổn định hoạt động sản xuất của ngành công nghiệp nói chung và của một số doanh nghiệp lớn trên địa bàn nói riêng đặc biệt của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa; Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp của địa phương cũng như của cả nước tạo tính bền vững trong tăng trưởng kinh tế cho những năm tiếp theo và tạo tiền đề cho bước đột phá mới.
Về cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông, LN, thủy sản. Cụ thể, ước năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 15,01%, giảm 0,58 điểm % so với năm 2021; khu vực công nghiêp - xây dựng chiếm 40,24% giảm 3,11 điểm %; khu vực dịch vụ chiếm 34,87%, tăng 2,55 điểm %; khu vực thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,88% tăng 1,14 điểm %.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Năm 2022, mặc dù thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết quả sản xuất vẫn đảm bảo kế hoạch đề ra về cơ cấu giống và thời vụ sản xuất. Sản lượng các cây trồng chủ lực của địa phương vẫn có mức tăng khá như cam, bưởi, ngô, khoai, sắn, rau các loại...Bên cạnh đó, các mô hình tích tụ, tập trung ruộng đất, cánh đồng lớn, chuỗi lên kết sản xuất tiếp tục được phát triển qua đó thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật mới, cơ giới hóa sản xuất; Chăn nuôi được phát triển theo hướng bền vững gắn với bảo vệ môi trường và kiểm soát dịch bệnh, hoạt động chăn nuôi cơ bản duy trì sản xuất, đạt mức tăng nhẹ cả về tổng đàn và sản lượng, việc tái đàn chưa có bước đột phá nào đáng kể do giá cả thất thường trong khi giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao; Hoạt động trồng, chăm sóc, khoanh nuôi rừng đạt kết quả ổn định và tăng nhẹ so với năm trước, công tác phòng cháy chữa cháy rừng, quản lý, bảo vệ rừng được quan tâm, tăng cường chỉ đạo; Sản xuất thủy sản duy trì mức tăng trưởng nhẹ so với năm trước.
Cây hàng năm: Kết quả sản xuất năm 2022, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn tỉnh sơ bộ tăng 0,17% (tăng 276 ha) so với năm 2021. Tổng sản lượng lương thực có hạt cả năm sơ bộ giảm 2,54% (giảm 16.062 tấn) so với thực hiện năm trước. Kết quả cụ thể đối với một số cây trồng chủ lực như sau:
Cây lúa: Diện tích gieo trồng lúa cả năm sơ bộ giảm 169 ha so với năm 2021. Trong đó: Diện tích lúa vụ Đông Xuân đạt 59.813 ha, bằng 100,56% (tăng 335 ha); vụ Hè Thu đạt 44.526 ha, bằng 99,05% (giảm 429 ha) và vụ Mùa đạt 415 ha, bằng 84,64% (giảm 75 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu diện tích lúa Hè Thu năm nay giảm là do sản xuất vụ Đông Xuân kết thúc chậm hơn so với kế hoạch đề ra gây ảnh hưởng đến việc gieo cấy lúa. Ngoài ra, năm nay được đánh giá là năm thời tiết thất thường mưa nhiều nắng ít nên đã gặp khó khăn trong việc gieo cấy.
Năng suất gieo trồng lúa cả năm 2022 sơ bộ giảm 2,03 tạ/ha so với năm trước, trong đó: Năng suất gieo trồng lúa vụ Đông Xuân đạt 55,87 tạ/ha, bằng 94,77% (giảm 3,08 tạ/ha); vụ Hè Thu đạt 50,32 tạ/ha, bằng 98,44% (giảm 0,8 tạ/ha) và vụ Mùa đạt 16,44 tạ/ha, bằng 86,96% (giảm 2,47 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước do gặp điều kiện thời tiết bất thường ở một số giai đoạn sinh trưởng phát triển.
Tổng sản lượng lúa năm 2022 sơ bộ giảm 22.213 tấn so với năm 2021. Trong đó: Sản lượng lúa Đông Xuân đạt 333.566 tấn, bằng 95,36% (giảm 16.227 tấn); vụ Hè Thu đạt 224.062 tấn, bằng 97,5% (giảm 5.742 tấn) và sản lượng lúa vụ Mùa đạt 682 tấn, bằng 73,6% (giảm 244 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Do vụ Hè Thu, vụ Mùa giảm diện tích và cả ba vụ sản xuất giảm năng suất nên sản lượng lúa năm 2022 giảm so với năm 2021.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng ngô năm 2022 sơ bộ tăng 767 ha so với năm trước. Trong đó diện tích gieo trồng ngô vụ Đông Xuân đạt 10.712 ha, bằng 105,22% (tăng 532 ha) và diện tích vụ Hè Thu đạt 2.239 ha, bằng 111,71% (tăng 235 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích ngô tăng là do năm nay giá thức ăn chăn nuôi tăng cao nên người dân tận dụng tối đa diện tích trồng ngô để phục vụ mục đích chăn nuôi. Năng suất ngô cả năm sơ bộ tăng 2,19 tạ/ha so với năm trước. Trong đó: Năng suất gieo trồng ngô vụ Đông Xuân đạt 46,41 tạ/ha, bằng 103,6% (tăng 1,61 tạ/ha) và vụ Hè Thu đạt 41,39 tạ/ha, bằng 114,84% (tăng 5,35 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước. Do cả diện tích và năng suất tăng nên sản lượng ngô cả năm tăng 6.151 tấn so với năm 2021.
Cây khoai lang: Diện tích trồng khoai lang năm 2022 sơ bộ tăng 191 ha so với năm trước. Trong đó: Diện tích gieo trồng khoai lang vụ Đông Xuân đạt 3.120 ha, bằng 105,97% (tăng 176 ha); vụ Hè Thu đạt 595 ha, bằng 106,98% (tăng 39 ha) và vụ Mùa đạt 46 ha, bằng 66% (giảm 24 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích tăng do một số huyện người dân được hỗ trợ giống cây khoai lang nên chuyển từ các loại cây khác sang trồng cây khoai lang. Năng suất khoai lang cả năm sơ bộ giảm 0,04 tạ/ha so với năm 2021. Trong đó: Năng suất vụ Đông Xuân đạt 75,52 tạ/ha, bằng 99,53% (giảm 0,35 tạ/ha); vụ Hè Thu đạt 59,86 tạ/ha, bằng 100,39% (tăng 0,23 tạ/ha) và vụ Mùa đạt 40,29 tạ/ha, bằng 95,93% (giảm 1,71 tạ/ha) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng khoai lang cả năm sơ bộ tăng 1.370 tấn so với năm 2021. Do diện tích tăng trong khi năng suất vẫn giữ ổn định nên sản lượng khoai lang tăng.
Cây sắn: Diện tích gieo trồng sắn năm 2022 sơ bộ đạt 2.625 ha, bằng 107,15% (tăng 175 ha) so với năm trước. Năng suất sơ bộ đạt 152,45 tạ/ha, bằng 100,86% (tăng 1,31 tạ/ha), với sản lượng sơ bộ đạt 40.025 tấn, bằng 108,08% (tăng 2.992 tấn) so với năm trước. Nguyên nhân tăng do năm nay giá thức ăn chăn nuôi tăng nên bà con nông dân trồng sắn làm thức ăn chăn nuôi để giảm bớt chi phí.
Cây lạc: Năm 2022, diện tích gieo trồng lạc sơ bộ giảm 1.182 ha so với năm trước. Trong đó: Vụ Đông Xuân diện tích gieo trồng đạt 8.826 ha, bằng 88,07% (giảm 1.196 ha) và vụ Hè Thu đạt 368 ha, bằng 103,75% (tăng 14 ha) so với thực hiện cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân diện tích lạc giảm là do một số xã chủ động được nước tưới nên chuyển diện tích trồng lạc sang trồng lúa hoặc trồng rau cho kinh tế cao hơn. Ngoài ra, do chi phí đầu vào tăng cao (giống, vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật) nên người nông dân không mặn mà trong sản xuất lạc mà chuyển sang cây trồng khác. Năng suất lạc cả năm sơ bộ giảm 3,85 tạ/ha so với năm trước. Do giảm cả diện tích và năng suất nên sản lượng lạc cả năm ước tính giảm 6.861 tấn so với năm trước.
Cây rau các loại: Năm 2022, diện tích gieo trồng rau sơ bộ tăng 483 ha so với năm trước. Trong đó: Vụ Đông Xuân diện tích gieo trồng rau các loại đạt 11.098 ha, bằng 103,19% (tăng 344 ha); vụ Hè Thu diện tích gieo trồng đạt 2.866 ha, bằng 105,79% (tăng 157 ha) so với cùng kỳ năm trước và diện tích rau vụ Mùa đạt 194 ha, bằng 91,94% (giảm 18 ha). Năng suất rau cả năm sơ bộ tăng 0,67 tạ/ha với sản lượng rau cả năm sơ bộ tăng 4.325 tấn so với năm trước. Năm nay do lượng mưa nhiều, ít nắng hạn nên thuận lợi cho việc sản xuất các loại rau.
Về diện tích: Tổng diện tích cây lâu năm hiện có sơ bộ đạt 31.825 ha, bằng 101,03% (tăng 326 ha) so với năm 2021, trong đó:
Tổng diện tích cây ăn quả sơ bộ đạt 19.587 ha, bằng 102,54% (tăng 486 ha) so với năm 2021, chiếm 61,55% tổng diện tích cây lâu năm. Trong đó diện tích các loại cây ăn quả có múi thuộc họ cam, quýt sơ bộ đạt 13.456 ha, bằng 103,94% (tăng 510 ha) so với năm 2021, chiếm 68,70% tổng diện tích cây ăn quả. Diện tích cây cam sơ bộ đạt 7.616 ha, tăng 140 ha, trong đó diện tích cam cho sản phẩm 6.494 ha, tăng 432 ha; diện tích bưởi sơ bộ đạt 4.410 ha, tăng 461 ha, diện tích bưởi cho sản phẩm 2.996 ha, tăng 137 ha...Cây có múi vẫn đang là một trong những sản phẩm cây ăn quả hàng hóa chủ lực của Hà Tĩnh và đang được các địa phương quan tâm đầu tư sản xuất.
Diện tích cây cao su sơ bộ đạt 8.460 ha, bằng 99,63% (giảm 31 ha) so với năm 2021, trong đó diện tích cho sản phẩm tăng 422 ha. Trong năm 2022, thanh lý 4 ha cao su với sản lượng 100 m3, giá trị 53 triệu đồng. Năm 2022 trên địa bàn không trồng mới cây cao su.
Diện tích chè búp sơ bộ đạt 1.266 ha, bằng 102,01% (tăng 25 ha) và diện tích chè xanh (chè hái lá) sơ bộ đạt 1.763 ha, bằng 93,18% (giảm 129 ha) so với năm 2021. Nguyên nhân giảm là do diện tích đất trồng bị thu hồi để phụ vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng đường giao thông...Một số diện tích tại vườn nhà không hiệu quả, cây trồng lâu năm già cỗi, người dân phá bỏ trồng các loại cây khác.
Về sản lượng: Do không ngừng đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cùng với điều kiện thời tiết năm nay không xẩy ra hạn hán, ít sâu bệnh và diện tích được mở rộng nên sản lượng các loại cây ăn quả tăng hơn so với năm 2021.
Sản lượng cây ăn quả năm 2022 sơ bộ đạt 166.340 tấn, bằng 102,29% (tăng 3.727 tấn) so với năm 2021. Trong đó sản lượng các loại quả có múi thuộc họ cam, quýt sơ bộ đạt 115.763 tấn, bằng 103,20% (tăng 3.588 tấn) so với năm 2021: Sản lượng bưởi tăng 2.451 tấn; sản lượng cam tăng 1.436 tấn...Thời điểm này, bưởi đang tập trung thu hoạch chính vụ. Vụ cam năm nay do thời điểm khi cây ra hoa, kết trái gặp phải thời tiết mưa lạnh thất thường nên năng suất giảm hơn năm trước.
Sản lượng cao su sơ bộ đạt 4.091 tấn, bằng 111,50% (tăng 422 tấn). Cây đến kỳ khai thác cho mủ khá tốt, chất lượng mủ đáp ứng yêu cầu kỹ thuật.
Sản lượng chè búp sơ bộ đạt 10.652 tấn, bằng 108,16% (tăng 804 tấn) và sản lượng chè xanh (chè hái lá) sơ bộ đạt 19.668 tấn, bằng 98,61% (giảm 277 tấn) so với năm 2021. Chè chủ yếu tập trung ở các địa phương Hương Sơn, Hương Khê, huyện Kỳ Anh, Can Lộc, Thạch Hà...
Trên cây lúa: Ốc bươu vàng phát sinh gây hại giai đoạn mạ, mật độ trung bình 1-3 con/m2, diện tích nhiễm 75 ha, gây hại chủ yếu vùng sâu trũng tại Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên,…; bệnh đạo ôn lá gây hại hầu hết tại các địa phương với tỷ lệ bệnh trung bình 5-7%, diện tích nhiễm 356 ha, trong đó nhiễm nặng 36,2 ha ; bệnh đạo ôn cổ bông phát sinh gây hại ở hầu hết các địa phương, tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 400 ha, trong đó 30,2 ha nhiễm nặng; bệnh khô vằn phát sinh gây hại trên những chân ruộng gieo cấy dày, bón thừa đạm, tỷ lệ trung bình 3-7%, diện tích nhiễm 1.978 ha, trong đó 5 ha nhiễm nặng, phân bố trên toàn tỉnh; bệnh bạc lá, tỷ lệ trung bình 5-7%, diện tích nhiễm 200 ha, phân bố tại Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương khê, Lộc Hà; rầy nâu, rầy lưng trắng xuất hiện cục bộ dạng ổ ở Đức Thọ, thị xã Hồng Lĩnh mật độ 700-1500con/m2, diện tích 2,7 ha; chuột phát sinh gây hại trên toàn tỉnh, tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 280 ha.
Trên cây lạc: Bệnh héo rũ gốc mốc đen, mốc trắng phát sinh gây hại tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 35 ha, nhiễm nặng 1,3 ha phân bố tại Lộc Hà, Thạch Hà, Hương Khê, Vũ Quang,...
Trên cây ngô: Sâu keo mùa thu phát sinh gây hại trên trà ngô 3-7 lá, mật độ trung bình 1-3 con/m2, diện tích 5,3 ha, phân bố tại Vũ Quang, Hương Khê..; bệnh khô vằn diện tích nhiễm 22,5 ha tập trung ở Cẩm Xuyên, Đức Thọ, Hương Sơn,...
Trên cây ăn quả có múi: Sâu vẽ bùa, sâu nhớt gây hại trên lộc xuân, diện tích nhiễm 68 ha; sâu xanh bướm phượng mật độ 1-3 con/cành, diện tích nhiễm 15 ha, sâu đục thân, đục cành 5 ha; bệnh loét sẹo, diện tích nhiễm 7 ha, phân bố tại Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê, Can Lộc,…
Trên cây lúa: Rầy nâu, rầy lưng trắng phát sinh gây hại chủ yếu trên diện tích sâu trũng, gieo cấy dày, mật độ trung bình 300-500 con/m2, diện tích nhiễm 12 ha, phân bố chủ yếu ở Đức Thọ, Can Lộc, Hương Sơn,…; bệnh khô vằn gây hại chủ yếu trên những chân ruộng gieo cấy dày, bón phân không cân đối, thừa đạm, diện tích nhiễm 1.301 ha, trong đó 41 ha nhiễm nặng phân bố hầu hết các địa phương trong tỉnh; bệnh bạc lá với diện tích nhiễm 3 ha, phân bố tại Đức Thọ, Hồng Lĩnh, Cẩm Xuyên, Lộc Hà,..; chuột phát sinh gây hại với tỷ lệ trung bình 1-3%, diện tích nhiễm 232 ha, phân bố hầu hết các địa phương.
Trên cây ngô: Sâu keo mùa thu phát sinh gây hại trên trà ngô sớm, diện tích nhiễm 5 ha, bệnh đốm lá 15 ha, sâu đục thân, đục bắp 7 ha, tập trung tại Hương Khê, Vũ Quang, Hương Sơn, Cẩm Xuyên…
Trên cây ăn quả có múi: Nhện nhỏ, diện tích nhiễm 23 ha; rệp muội, diện tích nhiễm 18 ha; ruồi đục quả , diện tích nhiễm 21 ha, bệnh nứt thân xì mủ phát sinh gây hại chủ yếu trên vườn cây lâu năm, thoát nước kém, diện tích nhiễm 13 ha, phân bố tại Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Can Lộc,…
Năm 2022, kết quả chăn nuôi cơ bản duy trì sản xuất, đạt mức tăng nhẹ cả về tổng đàn và sản lượng, việc tái đàn chưa có bước đột phá nào đáng kể. Dịch bệnh tuy không gây thiệt hại lớn như những năm trước nhưng vẫn còn xuất hiện gây hại đối với đàn vật nuôi. Hậu quả mần bệnh của dịch tả lợn Châu Phi còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, gây tâm lý e ngại trong việc tái đàn của người dân. Cùng với đó, trong thời gian qua chi phí chăn nuôi tăng cao trong khi giá bán thấp và thiếu ổn định, đặc biệt là giá trâu, bò hơi giảm; các tổ chức tín dụng thắt chặt cho vay nên nguồn vốn đầu tư cho chăn nuôi gặp khó khăn, nhất là đối với các cơ sở chăn nuôi đang còn dư nợ các tổ chức tín dụng. Đây chính là những rào cản đối với sự phát triển chăn nuôi trên địa bàn thời gian qua và tiếp tục sẽ vẫn là những khó khăn trong thời gian tới.
Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: Theo báo cáo của Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Tĩnh, tính từ đầu năm đến ngày 15/12/2022, một số dịch bệnh xuất hiện trên đàn vật nuôi, cụ thể như sau: Dịch tả lợn Châu Phi xẩy ra tại 41 xã thuộc 9 huyện, thành phố, thị xã (Cẩm Xuyên, Đức Thọ, Hương Sơn, Vũ Quang, huyện Kỳ Anh, Thạch Hà, Thị xã Kỳ Anh, Lộc Hà, Thành phố Hà Tĩnh), tổng số lợn mắc bệnh, buộc phải tiêu hủy 946 con, khối lượng hơn 51 tấn. Dịch lở mồm long móng xẩy ra tại 9 xã, thị trấn thuộc 5 huyện (huyện Kỳ Anh; Hương Khê; Thạch Hà; Cẩm Xuyên; Nghi Xuân) với số lượng 40 con trâu, 136 con bò và 1 con lợn mắc bệnh và đã được điều trị khỏi bệnh. Dịch bệnh viêm da, nổi cục xẩy ra tại xã Quang Thọ, huyện Vũ Quang và 4 xã (Ích Hậu; Phù Lưu; Hồng Lộc; Thạch Châu) thuộc huyện Thạch Hà làm 8 con trâu và 3 con bò mắc bệnh, trong đó có 2 con bò bị chết tiêu hủy với trọng lượng 108 kg. Hiện nay, dịch bệnh viêm da nổi cục đã được khống chế và qua 21 ngày. Dịch cúm gia cầm H5N1 xảy ra tại xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ và xã Cẩm Quang, huyện Cẩm Xuyên, tổng số gia cầm bị ốm, chết và buộc tiêu hủy 4.913 con. Thời gian tới, để phát triển chăn nuôi bên cạnh các chính sách nhằm phát triển đàn thì công tác phòng, chống dịch bệnh phải tiếp tục được quan tâm thực hiện để đảm bảo an toàn cho đàn vật nuôi phát triển.
Hoạt động trồng và khai thác rừng năm 2022 vẫn được các cấp chính quyền cũng như người dân quan tâm thực hiện và đạt kết quả khá hơn so với năm 2021. Kết quả trồng rừng tập trung năm 2022 tăng 101 ha so với năm 2021. Diện tích trồng rừng chủ yếu tập trung ở các địa phương: Huyện Kỳ Anh, huyện Hương Khê, huyện Hương sơn, huyện Cẩm Xuyên, huyện Thạch Hà...Đối với hoạt động khai thác, do rừng sản xuất đến kỳ thu hoạch nên sản lượng lâm sản khai thác năm 2022 ước tính tăng 27.066 m3 so với năm 2021.
Tính từ đầu năm đến ngày 15/12/2022, trên địa bàn Hà Tĩnh đã xẩy ra 1 vụ cháy rừng (giảm 2 vụ), với diện tích rừng bị cháy là 0,4 ha (giảm 0,83 ha) và 106 vụ phá rừng (giảm 6 vụ), với diện tích rừng bị phá là 49,483 ha (giảm 0,411 ha) so với năm trước.
Năm 2022, sản xuất thủy sản trên địa bàn Hà Tĩnh nhìn chung ổn định và có sự tăng nhẹ (tăng 1,56% tương đương tăng 846 tấn) so với năm 2021. Sản lượng khai thác chiếm 70,5% tổng sản lượng thủy hải sản, tăng 343 tấn và sản lượng nuôi trồng năm 2022 ước tính tăng 503 tấn so với năm 2021. Mặc dù giá bán sản phẩm tương đối ổn định nhưng giá nhiên liệu và các chi phí khác trong thời gian qua tăng quá cao nên ngư dân gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả kinh tế đạt thấp. Cùng với đó là điều kiện, phương tiện, tiềm lực khai thác biển đầu tư phát triển chậm nên khó để tạo ra bước đột phá trong khai thác hải sản.
Tình hình dịch bệnh: Từ đầu năm đến 15/12/2022, đối với tôm nuôi bệnh đốm trắng với diện tích nhiễm bệnh là 87,3 ha và bệnh hoại tử gan tụy cấp tính với diện tích nhiễm bệnh là 9,23 ha. Khi bệnh xảy ra, các ngành chức năng đã cùng với người nuôi tôm xác định tác nhân gây bệnh, tiến hành dập dịch nhằm không để dịch bệnh lây lan và gây thiệt hại cho các hộ nuôi tôm.
Năm 2022, tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, các sản phẩm chủ lực, chiếm tỷ trọng cao trong sản xuất công nghiệp như điện sản xuất, thép giảm đã “kéo” giảm chỉ số sản xuất ngành công nghiệp của tỉnh xuống còn 16,53% so với cùng kỳ năm 2021 và đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế tỉnh nhà.
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP)
Ước tính tháng 12/2022, chỉ số sản xuất toàn ngành giảm 1,41% so với tháng trước và giảm 15,25% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng ước tăng 5,56% so với tháng trước và giảm 6,5% so với cùng kỳ; ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước giảm 1,33% so với tháng trước và giảm 15,88% so với cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện dự tính giảm 2,9% so với tháng trước và giảm 10,8% so với cùng kỳ; ngành cung cấp nước và xả lý rác thải dự ước tăng 3,03% so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước giảm 23,46%.
Tính chung cả năm 2022, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh ước tính giảm 16,53% so với năm 2021. Trong đó: Ngành khai khoáng giảm 4,98%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 14,11%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 29,37%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải giảm 17,45% so với cùng kỳ năm 2021.
Trong 18 nhóm ngành công nghiệp cấp 2, có 9 nhóm ngành có chỉ số sản xuất cộng dồn cả năm tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 5 nhóm ngành có mức tăng cao, đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp như: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 190,15%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 65,72%; sản xuất đồ uống tăng 20,17%; sản xuất thuốc, hóa dược và dượ liệu tăng 18,22%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 10,63%.
Bên cạnh những ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng thì vẫn còn có 9 nhóm ngành giảm, làm ảnh hưởng tới tốc độ tăng toàn ngành như: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 29,37%; khai thác, xử lý và cung cấp nước giảm 19,33%; sản xuất kim loại giảm 16,5%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 11,11%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 9,84%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 7,79%; khai khoáng khác giảm 5,3%; dệt giảm 1,49%; khai thác quặng kim loại giảm 1,02%.
Chỉ số tiêu thụ: Tính chung 12 tháng, chỉ số tiêu thụ giảm 19,88% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, có một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm sâu như: Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 64,16%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 25,13%; sản xuất kim loại giảm 21,05%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 19,88%. Như vậy trong năm 2022 nhu cầu tiêu thụ sản phẩm công nghiệp giảm so với cùng kỳ, cho thấy các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong giai đoạn hiện nay.
Chỉ số tồn kho: Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 12/2022 tăng 26,01% so với tháng trước và tăng 65,51% cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao như: Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 102,31%; sản xuất đồ uống tăng 82,21%; dệt tăng 55,25% … Với kết quả này cho thấy, việc tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của một số doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ chủ yếu là do tồn kho của sản phẩm than cốc của Công ty Formosa Hà Tĩnh (tăng 136,4% so với cùng kỳ). Nguyên nhân là do Formosa sản xuất ra nguyên liệu chủ yếu giữ lại để phục vụ cho sản xuất của doanh nghiệp. Như vậy, tồn kho của Formosa không phải là không tiêu thụ được, mà do doanh nghiệp giữ lại nguyên liệu để phục vụ cho hoạt động của mình.
4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
4.1 Tình hình đăng ký kinh doanh
Năm 2022 vừa qua, Hà Tĩnh đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TU ngày 22/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp; tiếp tục tập trung chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến hồ sơ, thủ tục; triển khai các giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp, kịp thời thông tin, tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Ước đến ngày 20/12/2022, toàn tỉnh thành lập mới 1.380 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký gần 10.000 tỷ đồng (tăng 27,07% về số lượng và giảm 24,61% về số vốn đăng ký). Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 7,2 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2021 là 12,21 tỷ đồng); đã hỗ trợ đào tạo trên 1.000 lượt người về quản trị doanh nghiệp và khởi sự doanh nghiệp; có trên 400 doanh nghiệp tái gia nhập thị trường, tăng hơn 18% so với năm trước; 100% doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức đã áp dụng hóa đơn điện tử theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP của Chính phủ.
Song song với số lượng Doanh nghiệp thành lập mới, trong năm vừa qua, do nhiều yếu tố tác động khác nhau đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, cụ thể toàn tỉnh có 475 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động (tăng 12,29% so với cùng kỳ năm 2021), 192 doanh nghiệp giải thể (tăng 34,26% so với cùng kỳ năm 2021). Việc đăng ký thành lập mới doanh nghiệp trong năm qua là tín hiệu tích cực cho thấy xu hướng phục hồi của nền kinh tế.
Năm 2022, Hà Tĩnh tiếp tục triển khai có hiệu quả các hoạt động xúc tiến, mời gọi doanh nghiệp trong nước và quốc tế tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ các dự án trọng điểm, góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, là điểm sáng của cả nước trong việc thu hút đầu tư. Cụ thể, trong năm vừa qua, Hà Tĩnh đã chấp thuận chủ trương đầu tư cho 18 dự án, trong đó 16 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn gần 5.000 tỷ đồng, 02 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn hơn 278 triệu USD. Đã kết nối, xúc tiến dự án với các nhà đầu tư lớn đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, đô thị, du lịch, dịch vụ, phát triển nông nghiệp hữu cơ; tiếp tục đầu tư, phát triển Khu kinh tế Vũng Áng theo Nghị quyết số 09/NQ-TU ngày 22/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Tính đến thời điểm hiện tại, các hạng mục quan trọng của dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng II đang được tiến hành khẩn trương theo đúng tiến độ đề ra. Ngoài Nhiệt điện Vũng Áng II, các dự án lớn khác trong quá trình xây dựng như: Nhà máy Sản xuất Pin VinES (TX Kỳ Anh) dự kiến chạy thử trong quý I/2023; nhà máy bia Hà Nội - Nghệ Tĩnh đã đi vào sản xuất kinh doanh, các khu công nghiệp Cổng Khánh 2, khu đô thị TNR tại Thị xã Hồng Lĩnh, huyện Hương Sơn, huyện Đức Thọ, Thị xã Kỳ Anh... cũng đang được các nhà thầu tập trung thực hiện.
4.3. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Qua khảo sát các doanh nghiệp cho thấy, tỷ lệ các doanh nghiệp dự báo xu hướng sản xuất kinh doanh năm tiếp theo có xu hướng tăng lên so với năm hiện tại chiếm tỷ lệ cao. Điều này cho thấy tình hình sản xuất ngành công nghiệp đang có những chuyển biến tích cực và thuận lợi hơn trước. Cụ thể:
Doanh nghiệp dự báo xu hướng về khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo năm tiếp theo tăng lên chiếm tỷ trọng lớn (53,49% doanh nghiệp); doanh nghiệp dự báo xu hướng giữ nguyên là 25,58% và 20,93% doanh nghiệp cho rằng năm tiếp theo khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo sẽ giảm đi so với hiện tại.
Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo xu hướng về số lượng đơn đặt hàng mới ngành chế biến chế tạo năm tiếp theo tăng lên chiếm tỷ trọng lớn nhất (53,49%); doanh nghiệp dự báo xu hướng giảm đi chỉ chiếm 20,93%.
Các doanh nghiệp dự báo giữ nguyên số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ lệ cao (50%). Điều này cho thấy số lượng hàng hóa sản xuất cho tiêu thụ trong và xuất khẩu ra nước ngoài vẫn tiếp tục giữ ổn định trong năm 2023.
Với những điểm mới trong năm 2023, tỷ lệ số các doanh nghiệp vẫn nhận định và dự báo số lượng lao động năm tiếp theo sẽ vẫn giữ nguyên chiếm 65,12%; tỷ lệ doanh nghiệp dự báo sẽ tăng lao động chiếm 20,93%.
Trong năm tiếp theo, Hà Tĩnh đang kỳ vọng sự tăng trưởng từ những dự án mới như: Nhà máy Bia Hà Nội - Nghệ Tĩnh vừa đi vào vận hành; Nhà máy sản xuất Pin VinES dự kiến hoạt động vào cuối quý I/2023. Các dự án sắp sửa hoạt động trong thời gian tới đây sẽ góp phần làm đa dạng sản phẩm, gia tăng GTSX để ngành công nghiệp tiếp tục đóng vai trò là động lực tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhà.
5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng:
Năm 2022 ghi nhận sự phục hồi và tăng trưởng tích cực từ nhóm ngành thương mại, dịch vụ, mặc dù còn có những khó khăn do biến động khó lường về tình hình giá cả nhất là nhóm nhiên liệu xăng, dầu, khí đốt theo tình hình chung của Thế giới, cũng như ảnh hưởng của thời tiết đến cung các loại hàng hóa nông nghiệp. Tháng 12 tháng giáp Tết Nguyên đán dự báo sẽ là tháng sôi động của thị trường bán buôn, bán lẻ hàng hóa và các loại hình dịch vụ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa: Năm 2022 đạt 52.885,7 tỷ đồng, tăng 26,09% so với năm trước. Tất cả các nhóm hàng hóa đều có doanh thu tăng so với năm 2021, trong đó, doanh thu tăng mạnh ở các nhóm hàng như: đá quý, kim loại quý tăng 56,15%; xăng, dầu các loại tăng 47,97%; hàng may mặc tăng 45,62%; hàng hóa khác tăng 39,32%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 29,15%; nhiên liệu khác tăng 26,45%; riêng nhóm ngành lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng doanh thu cao nhất ước đạt 22.991,79 tỷ đồng và có mức tăng cao 24,01%. Nguyên nhân doanh thu bán lẻ tăng cao trước hết do thu nhập người dân trong năm đã có bước khởi sắc so với năm 2021 ảnh hưởng dịch Covid 19 nên nhu cầu mua sắm tăng cao, nhất là những tháng cuối năm chuẩn bị Tết Nguyên đán. Bên cạnh đó, do chịu ảnh hưởng của sự tăng lên của giá cả, các nhóm hàng xăng dầu, nhiên liệu, sắt, thép, kim loại quý, đồ dùng công nghệ cao giá ở mức cao do ảnh hưởng từ thị trường thế giới. Tác động của yếu tố mùa vụ khi thời tiết chuyển biến thất thường, nắng nóng kéo dài đến những tháng cuối năm mới chuyển rét lại rét đậm ảnh hưởng năng suất các loại cây trồng, vật nuôi, buộc người dân phải nhập hàng từ vùng khác.
Nhìn chung, kinh tế Hà Tĩnh và tình hình hoạt động thương mại của tỉnh trong cả năm chịu nhiều tác động bởi tình hình kinh tế, chính trị thế giới. Những lo ngại về lạm phát, suy giảm kinh tế tác động đến cung cầu, giá cả nhiều nhóm hàng hóa trong nước. Tỷ giá ngoại tệ tăng, các nền kinh tế lớn điều chỉnh lãi suất và những bất ổn chính trị trên thế giới dẫn tới chuỗi cung ứng toàn cầu mất ổn định.
Trong bối cảnh đó, thị trường bán lẻ hàng hoá trong tỉnh vẫn rất sôi động. Cơ cấu doanh thu cũng có sự chuyển dịch từ chợ truyền thống sang các cửa hàng kinh doanh trên đường phố, ngõ xóm; chuyển từ các công ty, cơ sở cá thể trong tỉnh sang các tập đoàn, chuỗi bán lẻ trong nước. Đặc biệt thị phần bán lẻ của một số ngành nghề như bán lẻ điện thoại, đồ điện tử, điện lạnh, gia dụng trên địa bàn tỉnh của các doanh nghiệp ngoài tỉnh chiếm thị phần lớn. Bên cạnh đó, tỷ trọng hàng hoá lưu thông trong các cơ sở, doanh nghiệp bán hàng trực tuyến ngày càng tăng. Những yếu tố này đã tạo ra một thị trường kinh doanh đa dạng, có sức cạnh tranh cao, chất lượng hàng hoá ngày càng đi lên. Công tác kiểm tra, giám sát, chống gian lận thương mại, hàng giả, kiểm soát chặt chẽ. Bên cạnh đó, các ngành chức năng đã tăng cường công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại; đảm bảo nhu cầu hàng hóa, nhất là đối với những mặt hàng thiết yếu, các dịch vụ công thông suốt phục vụ đời sống và hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhân dân và doanh nghiệp.
Dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành: Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành năm 2022 dự tính đạt 6.073,1 tỷ đồng, tăng 74,01% so với năm 2021. Trong đó: Dịch vụ lưu trú đạt 245,63 tỷ đồng, tăng 123,28%; lượt khách phục vụ 1.352.209 lượt khách, tăng 95%; ngày khách 1.081.562 ngày khách, tăng 76,52% so với năm trước; Dịch vụ ăn uống dự tính 5.811,25 tỷ đồng, tăng 72,3% so với năm trước; Dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch dự tính đạt 16,22 tỷ đồng, tăng 120,51%. Lượt khách theo tour 7.366 lượt khách tăng 40,12%, ngày khách du lịch theo tour 24.499 ngày khách tăng 75,43% so với năm trước.
Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống và lữ hành trên địa bàn tỉnh đang phục hồi tích cực sau năm 2021 bị hạn chế hoạt động. Các đơn vị kinh doanh ngày càng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ để phục vụ, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. Nguyên nhân tăng của nhóm ngành này có thế kể đến do: Thứ nhất thể hiện đời sống người dân đã được nâng lên rõ rệt so với năm 2021; thứ hai, do yếu tố tâm lý sau 1 năm bị kìm chế đến năm 2022 mọi hoạt động đã được tổ chức có quy mô và đầu tư hơn nhất là trong các dịp lễ, ngày nghỉ...; thứ ba, do yếu tố giá cả thực phẩm tăng, và ảnh hương tăng từ nhóm hàng ga, nhiên liệu kéo theo các chi phí khác tăng. Bên cạnh đó, không thể không kể sự thuận lợi về đường giao thông, phương tiện đi lại cũng như việc chính quyền và các doanh nghiệp đã đầu tư hơn cho chất lượng và hạ tầng các dịch vụ phục vụ lưu trú, ăn uống, các điểm du lịch Hà Tĩnh, đặc biệt là du lịch biển với những bãi biển đẹp như Thiên Cầm, Thạch Hải, Xuân Hải, Xuân Thành…, thu hút lượng khách đến các bãi biển, khu nghỉ dưỡng bắt đầu tăng. Ngoài số lượng khách nội tỉnh, khách du lịch ngoại tỉnh đến với Hà Tĩnh bắt đầu tăng lại khả quan hơn thời điểm trước dịch.
Dịch vụ khác năm 2022 ước tính đạt 2.578,04 tỷ đồng, tăng 73,78% so với năm trước. Hầu hết các nhóm ngành dịch vụ khác đều tăng mạnh so với cùng kỳ, cụ thể: Nhóm kinh doanh bất động sản tăng 79,43%; hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 63,86%; giáo dục đào tạo tăng 131,35%; nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 56,21%; dịch vụ tăng 109,06%. Chỉ có duy nhất nhóm y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 3,03% do năm 2021 hoạt động y tế đạt doanh thu ở dịch vụ hỗ trợ Covid, bước sang năm 2022 việc dịch bệnh đã được kiểm soát và người dân đã nâng cao nhận thức về tự phòng chống dịch vì vậy nhóm doanh thu này giảm so với năm 2021.
Nhìn chung, việc tăng doanh thu ở nhóm dịch vụ khác chủ yếu ở các nguyên nhân cụ thể sau: Thứ nhất, nhờ tác động của các chính sách kinh tế - xã hội từ Trung ương đến địa phương được thực hiện hiệu quả và cũng có những giải pháp kịp thời khắc phục những khó khăn đến sản xuất kinh doanh. Do vậy, tạo thuận lợi cho hoạt động dịch vụ ngày càng phát triển. Thứ hai, Hà Tĩnh chủ yếu phát triển dịch vụ nên việc các ngành dịch vụ đã hoạt động mạnh trở lại nên thu nhập người dân đảm bảo hơn, nhu cầu về dịch vụ hỗ trợ hành chính, dịch vụ y tế, dịch vụ vui chơi giải trí và dịch vụ làm đẹp tăng. Thứ ba, thời tiết nắng nóng kéo dài khá lâu, mùa mưa lạnh đến chậm hơn nên tạo điều kiện cho người dân triển khai các công trình xây dựng cá nhân, các doanh nghiệp xây dựng đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình. Dự ước những năm tới hoạt động dịch vụ khác sẽ tăng trưởng khả quan theo đà tăng trưởng của năm 2022.
Cũng như các ngành dịch vụ, năm 2022 ghi nhận sự tăng trưởng mạnh của hoạt động vận tải. Việc tăng giá nhiên liệu đẩy phí vận tải tăng lên tuy nhiên không ảnh hưởng đến sức tiêu dùng hoạt động của người dân và các tổ chức kinh tế, ngược lại việc giá phục vụ cao cộng với sự can thiệp của các cơ quan chức năng đã nâng cao ý thức của các lái xe tuân thủ về tải trọng cũng như lượng hành khách phục vụ đảm bảo an toàn giao thông, vận tải. Trong năm chỉ có hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải giảm do việc xuất khẩu hàng hóa gặp khó khăn số lượng hàng hóa thông qua cảng giảm.
Doanh thu vận tải, kho bãi năm 2022 ước đạt 5.446,13 tỷ đồng, tăng 25,45% so với năm 2021. Trong đó:
Vận tải hành khách doanh thu ước đạt 1.195,81 tỷ đồng, tăng 42,38% so với năm trước. Số lượng hành khách vận chuyển ước đạt 15.424,46 nghìn HK, tăng 39,44% so với năm trước; luân chuyển ước đạt 2.644,88 triệu HK.km, tăng 42,15% so với năm trước. Việc chú trọng đầu tư của các đơn vị kinh doanh lữ hành, lưu trú, nhà hàng là những yếu tố quan trọng đóng vai trò “kích cầu” tăng nhu cầu du lịch, đi chơi vào các dịp nghỉ lễ, cũng như nhu cầu đi lại hàng ngày đi học và làm việc nội và ngoại tỉnh cộng với việc tăng giá vé phục vụ đã khiến doanh thu vận tải hành khách đạt mức tăng kỷ lục, tuy nhiên việc tỉ trọng doanh thu của vận tải hành khách thấp hơn nhiều so với vận tải hàng hóa nên kết quả tăng chung của ngành vận tải vẫn chỉ đạt trên 25%.
Vận tải hàng hóa ước đạt 3.401,34 tỷ đồng, tăng 29,54% so với năm trước. Khối lượng hàng hóa vận chuyển ước tính đạt 38.193,31 nghìn tấn, tăng 30,12% so với năm trước; luân chuyển ước đạt 971,99 triệu tấn.km, tăng 27,89% so với cùng kỳ năm trước. Do thời tiết thuận lợi cho các công trình xây dựng, san lấp mặt bằng thực hiện thi công nên nhu cầu sử dụng phương tiện vận tải hàng hóa tăng. Nhu cầu xây dựng, sửa sang nhà cửa trong nhân dân tăng cùng với việc đẩy mạnh công tác chỉnh trang đô thị, nhiều dự án đang được triển khai đầu tư nên nhu cầu vận chuyển vật liệu xây dựng tăng.
Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 848,05 tỷ đồng, giảm 3,16% so với năm trước. Nguyên nhân do khối lượng hàng hóa thông qua cảng giảm cũng như nhu cầu đăng kiểm giảm hơn. Mặc dù các hoạt động sản xuất kinh doanh được phục hồi nên nhu cầu đi lại cũng như vận chuyển hàng hóa năm 2022 tăng khá cao so với năm 2021. Tuy nhiên, do chi phí xăng, dầu, lãi suất ngân hàng...tăng cao nên các đơn vị hoạt động vận tải trên địa bàn Hà Tĩnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Kết quả thu NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh năm 2022 vượt dự toán Trung ương và HĐND tỉnh giao điều này cho thấy cộng đồng doanh nghiệp Hà Tĩnh đã thích nghi với trạng thái bình thường mới, duy trì sản xuất, kinh doanh ổn định trong điều kiện dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát. Trong bối cảnh thực hiện nhiều chính sách phục hồi kinh tế như miễn, giảm, giãn các khoản thuế, phí để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, Hà Tĩnh đang làm tốt nhiệm vụ thu ngân sách và cân đối, phát triển nền kinh tế. Chi ngân sách Nhà nước trong năm cơ bản đáp ứng được các nhiệm vụ bố trí trong dự toán và các nhiệm vụ đột xuất quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh của địa phương.
Năm 2022 tổng thu ngân sách nhà nước (đã loại trừ hoàn thuế) trên địa bàn tính đến ngày 15/12/2022 sơ bộ đạt 14.606 tỷ đồng giảm 5,44% so với năm 2021. Trong đó, thu nội địa đạt 8.028 tỷ đồng tăng 1,28% so với năm 2021, tập trung chủ yếu vào các nguồn thu lớn như từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nước ngoài, thuế ngoài quốc doanh đạt 3.137 tỷ đổng tăng 14,65% so với năm 2021; các khoản thu về nhà đất đạt 2.953 tỉ đổng giảm 3,67%. Năm 2022 các khoản thu từ thuế, phí giảm chủ yếu do áp dụng nhiều chính sách của Trung ương hỗ trợ thuế để phục hồi phát triển kinh tế, một số dự án mới dự kiến đóng góp lớn vào thu ngân sách trong năm nhưng đến nay chưa triển khai đầu tư. Bên cạnh các khoản thu nội địa thì thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu đạt 6.335 tỉ đồng giảm 6,38% so với năm trước. Trong đó, thu hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 9.047,58 tỷ đồng, tăng 16,10 % so với năm trước nguyên nhân chủ yếu do giá các mặt hàng nhập khẩu như than, dầu, quặng (chủ yếu phục vụ sản xuất của Formosa) tăng cao đem lại nguồn thu lớn; hoàn thuế giá trị gia tăng đạt 2.713 tỉ đồng tăng 164,45% so với cùng kỳ.
Trên cơ sở tiến độ thu ngân sách thực tế, với các giải pháp điều hành linh hoạt, hợp lý nên chi ngân sách cơ bản đáp ứng được các nhiệm vụ đã bố trí trong dự toán và các nhiệm vụ đột xuất quan trọng về phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương. Tổng chi ngân sách nhà nước tính đến ngày 15/12/2022 sơ bộ đạt 19.128 tỷ đồng giảm 4,63% so với năm 2021. Trong cơ cấu nguồn chi thì chi đầu tư phát triển đạt 8.565 tỷ đồng, chiếm 44,78% tổng chi, giảm 11,46% so với cùng kỳ năm 2021; chi thường xuyên đạt 10.476 tỷ đồng chiếm 54,77% tăng 1,07% so với năm 2021. Chi đầu tư giảm so với cùng kỳ nguyên nhân công tác giải ngân vốn đầu tư công một số dự án còn chậm; vướng mắc trong thủ tục và trong công tác đền bù GPMB.
Hoạt động ngân hàng Hà Tĩnh năm 2022 cơ bản ổn định và có bước tăng trưởng. Các TCTD đã bám sát chỉ đạo điều hành của Nhà nước, tập trung mọi nguồn lực để đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, các dự án, phương án có hiệu quả, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương năm 2022.
Ước nguồn vốn huy động đến 31/12/2022 đạt 83.177 tỷ đồng, giảm 4,86% so với cuối năm 2021.Trong đó, nguồn vốn huy động trung, dài hạn ước đạt 11.925 tỷ đồng, chiếm 14,34% tổng nguồn vốn huy động, tăng 3,47% so với cuối năm 2021; nguồn vốn huy động ngắn hạn đạt 71.252 tỷ đồng, chiếm 85,66 % tổng nguồn vốn huy động, giảm 6,12%. Tiền gửi tiết kiệm ước đạt 60.236 tỷ đồng, tăng 3,78%; tiền gửi thanh toán ước đạt 22.026 tỷ đồng, giảm 23,88% so với thời điểm cuối năm 2021. Nguồn vốn huy động giảm so với cuối năm 2021 nguyên nhân chủ yếu do nguồn tiền gửi của tổ chức kinh tế giảm mạnh với mức giảm 25,9% so với cuối năm 2021. Tình hình dịch Covid-19 trong tỉnh và cả nước đã được kiểm soát và các chính sách nhằm phục hồi, phát triển kinh tế của Chính phủ được triển khai đã thúc đẩy các doanh nghiệp trên địa bàn sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh.
Dư nợ cho vay ước đến ngày 31/12/2022 đạt 89.105 tỷ đồng, tăng 24,14% so với cuối năm 2021. Trong đó, dư nợ ngắn hạn ước đạt 60.854 tỷ đồng (chiếm 68,29% tổng dư nợ), tăng 24,73%; dư nợ trung dài hạn đạt 28.251 tỷ đồng (chiếm 31,71% tổng dư nợ) tăng 22,90%. Dư nợ đối với các lĩnh vực ưu tiên đạt 37.043 tỷ đồng, tăng 19,51% so với cuối năm 2021. Tín dụng đối với một số lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng khá, trong đó tín dụng đối với cho vay nông nghiệp nông thôn tăng 21,57% so với cuối năm 2021, cho vay thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu tăng 73,84%, cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 11,84%. Sự phục hồi của nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới đã tác động mạnh vào hoạt động xuất khẩu của cả nước nói chung và Hà Tĩnh nói riêng. Chính vì vậy, việc hỗ trợ các DN xuất khẩu phục hồi và duy trì chuỗi cung ứng nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cao của các thị trường xuất khẩu lớn trong thời gian tới là một trong những giải pháp quan trọng giúp phát triển kinh tế Hà Tĩnh.
Các tổ chức tín dụng trên địa bàn nghiêm túc chấp hành các quy định điều hành lãi suất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, không có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, vượt trần. Lãi suất huy động tiền gửi bằng VNĐ ở mức 0,1-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,9-6% đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,7-7,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; 6,2-9,2%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Lãi suất huy động USD ở mức 0%/năm đối với tiền gửi của tổ chức và dân cư. Lãi suất cho vay VNĐ ngắn hạn phổ biến 5,5-11%/năm, trung dài hạn phổ biến 10,5-13,5%/năm. Lãi suất cho vay USD ngắn hạn phổ biến ở mức 2-4,5%/năm; trung, dài hạn phổ biến mức 5,5-5,6%/năm Công tác quản lý ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng được triển khai thực hiện nghiêm túc tại địa bàn. Tính đến 31/12/2022 nợ xấu ước tính 665 tỷ đồng, chiếm 0,75% tổng dư nợ. Nhìn chung tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ở mức thấp nằm trong giới hạn cho phép.
Năm 2022, nhờ đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, tăng cường quyết toán dự án đầu tư, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng. Do đó tổng vốn đầu tư toàn xã hội ở 3 khu vực đều tăng cao, tăng 47,74% so với năm 2021.
Với việc đang tập trung cao trong triển khai thực hiện các công trình, dự án trọng điểm trên địa bàn. Vì vậy, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn ước đạt 40.355,1 tỷ đồng, tăng 47,74% so với năm 2021. Trong đó, được phân theo các khu vực như sau:
Khu vực nhà nước ước đạt 9.314,7 tỷ đồng, tăng 15,86% so với năm 2021. Trong đó: Vốn ngân sách nhà nước 8.264 tỷ đồng (gồm giải ngân đầu tư công, giải phóng mặt bằng dự án Đường cao tốc Bắc Nam); vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước 157 tỷ đồng. Đến thời điểm hiện nay Hà Tĩnh có 04 dự án được hỗ trợ 810 tỷ đồng từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, đến nay đều đã được HĐND tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư đảm bảo tiến độ, hiện các đơn vị, địa phương đang hoàn thiện hồ sơ, thủ tục để đầu tư theo quy định.
Khu vực ngoài nhà nước ước đạt 21.364,5 tỷ đồng, tăng 19,37% so với năm 2021. Trong đó: Vốn của dân cư đạt 12.745,2 tỷ đồng; vốn của doanh nghiệp đạt 8.619,3 tỷ đồng (dự án Pin VINES 3.694 tỷ đồng, Khu dân cư tổ 6,7 phường Đậu Liêu 220 tỷ đồng, Nhà máy bia Hà Nội Nghệ Tĩnh 50 tỷ đồng...).
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 9.675,9 tỷ đồng, tăng gấp 7 lần so với năm 2021. Nguồn vốn khu vực này tăng chủ yếu do dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 2, trong năm dự ước vốn thực hiện đạt trên 8.600 tỷ đồng.
Năm 2022, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành và sự huy động mọi nguồn lực của các đơn vị thi công, cùng với đó là chính quyền địa phương các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, xử lý kịp thời các khó khăn vướng mắc, thực hiện nhanh công tác bàn giao mặt bằng phục vụ triển khai các dự án trên địa bàn, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình xây dựng. Hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có nhiều khởi sắc, giá trị tăng thêm ngành xây dựng theo giá so sánh năm 2022 ước đạt 4.688 tỉ đồng, tăng 24,88% so với cùng kỳ năm 2021; đây là năm ngành xây dựng đạt mức tăng trưởng dương trở lại trong vòng 5 năm, kể từ khi nhà máy Gang thép Formosa cơ bản hoàn thành xây dựng và đi vào hoạt động sản xuất.
Hiện tại, Hà Tĩnh đang tiếp tục triển khai có chiều sâu các hoạt động xúc tiến, mời gọi doanh nghiệp trong nước và quốc tế tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh tiến độ các dự án trọng điểm, góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạt động xuất nhập khẩu Hà Tĩnh năm 2022 gặp khá nhiều khó khăn, thách thức do sự bất ổn của tình hình thế giới, nhất là trong xuất khẩu mặt hàng giữ tỷ trọng lớn thép và phôi thép. Tuy nhiên, nhờ sự linh hoạt trong việc ứng phó khó khăn,cũng là cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh khác như dệt, may mặc, chè, thủy sản....Nhưng việc giá trị của các mặt hàng này có khá nhỏ nên dù tăng mạnh cũng không kéo lại tăng trưởng Xuất khẩu chung. Năm 2022 tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tỉnh ước đạt 5.200,64 triệu USD giảm 1,87% so với cùng kỳ.
- Kim ngạch xuất khẩu: Năm 2022 ước đạt 1.800,2 triệu USD, giảm 9,99% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài mặt hàng thép, phôi thép ước đạt 1.559,13 triệu USD giảm 13,38% so với năm 2021 còn có các nhóm hàng khác giảm như thủy sản giảm 15,92%; xơ, sợi dệt các loại giảm 27,45%. Có 3 nhóm hàng tăng mạnh và nâng dần tỷ trọng xuất khẩu như: Hàng dệt và may mặc đạt 27,49 triệu USD tăng 113,1% so với năm 2021; dăm gỗ đạt 75,44 triệu USD tăng 54,91% so với năm 2021; chè đạt 0,3 triệu USD tăng 25,0% so với năm 2021. Điểm sáng xuất khẩu năm 2022 là mặt hàng dệt và may mặc có sự tăng trưởng tốt là nhờ tình hình dịch COVID-19 cơ bản được kiểm soát nên việc cung ứng nguyên liệu, khâu vận chuyển hàng đảm bảo thông suốt và đơn hàng từ thị trường các nước đối tác thương mại ổn định hơn năm trước. Tính riêng xuất khẩu từ Formosa ước đạt 1.626,47 triệu USD (chiếm 90,35% giá trị xuất khẩu toàn tỉnh) giảm 12,6% so với năm 2021.
- Kim ngạch nhập khẩu: Năm 2022 ước đạt 3.400,44 triệu USD, tăng 3,04% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chủ yếu là nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất Formosa đạt 2.927,66 triệu USD (Chiếm 86,1%) tăng 6,04%.
Mặc dù hoạt động xuất khẩu chủ yếu là hoạt động của Formosa, nhưng việc giảm dần tỷ trọng đóng góp (Xuất khẩu giảm 2,7 điểm phần trăm) đánh dấu sự chuyển biến trong hoạt động xuất khẩu của tỉnh nhà. Để kim ngạch xuất nhập khẩu đạt con số tăng trưởng cao nhất, cơ quan chức năng đang tích cực hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghệp khai thác hiệu quả các lợi thế từ FTA (Hiệp định thương mại tự do); đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường xúc tiến thương mại để gia tăng sản phẩm xuất khẩu và thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo đề án đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gắn với phát triển dịch vụ logistics tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2021 - 2025…
Tình giá cả các mặt hàng năm 2022 khá khó nắm bắt, sự lên xuống của giá cả thị trường hàng hóa biến động từng ngày. Nhưng nhìn chung, chỉ số giá tiêu dùng chung năm 2022 cơ bản được kiểm soát, nhất là tháng 12 tháng giáp Tết Nguyên đán. Một số nhóm hàng có chỉ số sự bến động tăng mạnh như giao thông, vật liệu xây dựng, đồ uống, hàng may mặc và giải trí... Bên cạnh đó cũng có những nhóm hàng có chỉ số giảm như hàng ăn và dịch vụ ăn uống, bưu chính viễn thông.
Tháng 12 năm 2022, chỉ số giá CPI chung giảm nhẹ 0,1% so với tháng trước nhưng so với cùng kỳ vẫn ở mức tăng 3,2%%. Trong đó, nhóm giao thông đã có dấu hiệu hạ nhiệt khi giảm 2,2% so với tháng trước và tăng nhẹ 0,9% so với cùng kỳ. Do việc giá xăng, dầu bình quân giảm dần qua các lần điều chỉnh trong tháng do ảnh hưởng từ thị trường thế giới. Tại đợt điều chỉnh ngày 21/12 vừa qua, giá xăng E5 RON 92 giảm 370 đồng/lít, còn 19.970 đồng/lít; xăng RON 95 giảm 500 đồng/lít, còn 20.700 đồng/lít. Trong khi đó, giá dầu hỏa giảm 70 đồng/lít xuống còn 21.830 đồng/lít, dầu diesel giảm 70 đồng/lít còn 21.600 đồng/lít, dầu mazut giảm 150 đồng/kg xuống 12.860 đồng/kg. Như vậy, giá xăng đã có lần giảm thứ 4 liên tiếp trong thời gian qua. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giá cả vẫn đang tăng nhẹ 0,87% so với tháng trước và so với cùng kỳ đã giữ mức tăng 5,18%, do việc mặt hàng chăn, ga, gối đệm, bàn là điện, bình nước nóng và đồ nội thất tăng giá theo nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó, nhu cầu các vật dụng trang trí nhà ở trong dịp lễ Giáng sinh cũng góp phần làm chỉ số nhóm giá này tăng.
Tính chung cả năm 2022, chỉ số giá CPI tăng 2,2% so với năm trước. Trong đó: Khu vực thành thị tăng 1,95%; nông thôn tăng 2,3% so với năm trước. Nếu phân theo nhóm ngành hàng thì chỉ có 2 nhóm hàng có chỉ số giảm là nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,37%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm không đáng kể 0,07% so với năm 2021. Xét trong nhóm hàng lương thực, thực phẩm mặc dù giảm rất ít nhưng đây là nhóm hàng thiết yếu lại bao gồm rất nhiều loại hàng hóa và có nhiều biến động. Cụ thể giá gạo và thịt các loại giảm so với năm trước do nguồn cung đã cơ bản ổn định, nhưng nhóm rau củ thì biến động rất thất thường, có lúc ở mức rất cao, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Còn lại tất cả các nhóm hàng đều tăng, cụ thể có một số nhóm hàng tăng cao như: nhóm giao thông tăng 9,62%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 5,05%, văn hóa giải trí du lịch tăng 2,9%.; đồ uống thuốc lá tăng 2,27%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,92%... Do tình hình kinh tế, chính trị thế giới tiếp tục bất ổn ảnh hưởng đến kinh tế trong nước, tác động đến nhiều nhóm hàng hóa như xăng, dầu, khí đốt, vàng, sắt thép, đồ dùng công nghệ cao. Nền kinh tế khó khăn trên phạm vi toàn cầu, chuỗi cung ứng bị ảnh hưởng đã dẫn tới hoạt động sản xuất trong nước gặp bất lợi.
Nhìn chung, thị trường tiêu dùng, từ đầu năm đến nay các mặt hàng có mức biến động mạnh chủ yếu tập trung ở các nhóm lương thực, thực phẩm, xăng dầu, điện nước sinh hoạt. Bên cạnh đó, nhờ sự phục hồi của nền kinh tế, thu nhập của người dân tăng hơn năm trước, kích thích nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Mức tăng tập trung ở các tháng đầu năm, chịu ảnh hưởng bởi nhóm nhiên liệu xăng, dầu các loại tăng mạnh. Nguyên nhân chủ yếu do những bất ổn về kinh tế, chính trị trên thế giới đã tác động đến thị trường tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong nước. Năm 2022 chỉ số giá vàng tăng 1,43% so với năm trước; chỉ số giá đô la Mỹ tăng 2,12% so với năm trước.
Dự kiến CPI tháng 01/2023 dự kiến tăng mạnh, mức tăng tăng dần từ thời điểm cuối tháng 12/2022 và giữ hết tháng 1/2023, khi thời điểm dịp Tết Nguyên đán đến gần. Mức tăng chủ yếu tập trung các nhóm lương thực, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, hàng may mặc, nội thất gia đình, cước vận tải hành khách, vật phẩm trang trí nhà ở, điện và khí đốt. Để bảo đảm nguồn hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán, các siêu thị lớn, doanh nghiệp trên địa bàn Hà Tĩnh đang có sự chuẩn bị về nguồn hàng cũng như đưa ra nhiều chương trình kích cầu…Bên cạnh đó, các ngành chức năng tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại; đảm bảo nhu cầu hàng hóa, nhất là đối với những mặt hàng thiết yếu, các dịch vụ công thông suốt để phục vụ đời sống cũng như sử dụng hợp lý quỹ bình ổn giá để bình ổn thị trường.
1. Dân số, lao động và việc làm
Năm 2022, tình hình dịch bệnh covid-19 ở Hà Tĩnh cơ bản được kiểm soát tốt, các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động ổn định trở lại, nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp ở Hà Tĩnh tăng cao, đặc biệt tập trung một số nhóm ngành may mặc, điện, cơ khí và dịch vụ kinh doanh… vỳ vậy tình hình về lao động và việc làm ở Hà Tĩnh có phần khởi sắc hơn so với năm trước.
Dân số trung bình năm 2022 ước tính 1.319.181 người, tăng 0,39 % so với năm 2021 (tăng 5.125 người). Trong đó, dân số thành thị 294.156 người, chiếm 22,3%; dân số nông thôn 1.025.025 người, chiếm 77,7%; dân số nam 654.053 người, chiếm 49,58% và dân số nữ 665.128 người, chiếm 50,42%.
Ước năm 2022, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên ước tính là 530.805 người tăng 3,34% so với năm 2021; trong đó lực lượng lao động nam là 280.673 người, chiếm 52,88%; lực lượng lao động nữ là 250.132 người chiếm 47,12% trong tổng số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 123.132 người, chiếm 23,20%; nông thôn là 407.673 người chiếm 76,80%.
Tính chung năm 2022, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên có việc làm là 505.162 người, chiếm 95,17% tổng số lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và tăng 3,18% so với năm 2021. Trong tổng số, lao động có việc làm ở thành thị chiếm 23,47%; nông thôn chiếm 76,53%; ở nam giới chiếm 52,73%; nữ giới chiếm 47,27%. Số lao động làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản là 155.170 người, chiếm 30,72% trong tổng số; ngành công nghiệp và xây dựng là 144.686 người, chiếm 28,64%; ngành dịch vụ là 205.306 người, chiếm 40,64%.
Theo số liệu Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động năm 2022 là 22.995 người, đạt 104,52% kế hoạch năm 2022, tăng 1,89% so với năm 2021. Trong đó: lao động được giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh 7.293 người, chiếm 31,72% trong tổng số, giảm 36,8%; lao động đi làm việc ngoại tỉnh 4.185 người, chiếm 18,2%, giảm 23,1%; xuất khẩu lao động 11.517 người, chiếm 50,08%, tăng 106,14%.
Ước năm 2022, số người không có việc làm (thất nghiệp) ước tính là 25.643 người, chiếm 4,83% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và tăng 0,15 điểm phần trăm so với năm trước. Xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp năm 2022 ước tính là 5,1%, giảm 0,28 điểm phần trăm so với năm trước.
2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Đời sống dân cư: Sau thời gian dài gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh, các đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã hoạt động bình thường và dần đi vào ổn định. Bên cạnh đó, Hà Tĩnh tiếp tục tập trung chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi; ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất; thu hút các dự án đầu tư mới góp phần giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho người dân, nhìn chung đời sống nhân dân ổn định, toàn tỉnh không xảy ra tình trạng thiếu đói trong dân cư. Thu nhập bình quân đầu người năm 2022 ước đạt 45,08 triệu đồng/năm tăng 26,03% so với năm 2021.
Công tác giảm nghèo: Năm 2022, Hà Tĩnh tiếp tục triển khai các chương trình, đề án giảm nghèo với mục tiêu là giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho người dân đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Theo kết quả rà soát, hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022, toàn tỉnh còn 14.527 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 3,79% (giảm 3.321 hộ nghèo so với năm 2021, tương ứng giảm 0,89% tỷ lệ hộ nghèo); tổng số hộ cận nghèo 15.486 hộ, chiếm tỷ lệ 4,04% (giảm 3.934 hộ cận nghèo so với năm 2021, tương ứng giảm 1,05% tỷ lệ hộ cận nghèo).
Công tác đảm bảo an sinh xã hội: Năm 2022 toàn tỉnh đã trao tặng khoảng 502.448 suất quà cho các đối tượng người có công, hộ nghèo, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng bảo trợ xã hội với tổng số tiền là 158,361 tỷ đồng. Cụ thể: Tặng quà cho người có công khoảng 304.599 suất quà trị giá 83,498 tỷ đồng; Tặng quà cho hộ nghèo, hộ cận nghèo khoảng 50.576 suất quà trị giá 25,376 tỷ đồng; Tặng quà cho người cao tuổi khoảng 37.207 suất quà trị giá 10,656 tỷ đồng; Tặng quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn khoảng 66.500 suất quà trị giá 19,4 tỷ đồng; tặng quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội và đối tượng khác khoảng 43.566 suất quà trị giá 19,431 tỷ đồng. Trao tặng 96 sổ tiết kiệm với tổng số tiền là 589 triệu đồng cho người có công. Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương xây mới là 742 nhà kinh phí khoảng 50.895 triệu đồng; Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương sửa chữa là 80 nhà kinh phí khoảng 1.342 triệu đồng. Cấp khoảng 22.429 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, 42.726 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo, 151.994 thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi và 49.037 thẻ bảo hiểm y tế cho người có công.
Thực hiện Quyết định số 08/2022/QĐ-Ttg ngày 28/03/2022 của Chính Phủ về “Quy định việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động”; Kế hoạch số 164/KH-UBND ngày 11/5/2022 của UBND tỉnh về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Đến nay Hà Tĩnh đã hoàn thành việc chi trả hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động. Tổng số lao động được hỗ trợ 1.314 lao động với kinh phí hỗ trợ 1.999,5 triệu đồng, được chia làm 4 đợt. Đợt 1 là 301 lao động, kinh phí hỗ trợ 459 triệu đồng; đợt 2 là 375 lao động, kinh phí hỗ trợ 580 triệu đồng; đợt 3 là 169 lao động, kinh phí hỗ trợ 258 triệu đồng; đợt 4 là 465 lao động, kinh phí hỗ trợ 698,5 triệu đồng.
Nhìn chung, công tác đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh triển khai kịp thời; các cấp, các ngành làm tốt công tác huy động nguồn lực, tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho người có công, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng khác kịp thời, chu đáo.
Giáo dục phổ thông: Trong tháng đã diễn ra kỳ thi học sinh giỏi tỉnh lớp 12 năm học 2022 - 2023 vào ngày 13/12 với tổng số 913 thí sinh tham gia ở 10 bộ môn: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Tin, Văn, Sử, Địa, Anh, Pháp. Kết quả toàn tỉnh có 562 thí sinh đạt giải, trong đó có 57 giải nhất, 158 giải nhì, 198 giải ba và 149 giải khuyến khích. Ngoài số thí sinh tham gia dự thi đạt giải, năm nay, toàn tỉnh còn có 91 thí sinh được đặc cách công nhận học sinh giỏi tỉnh môn tiếng Anh theo Quyết định số 1472/QĐ-SGDĐT về việc đặc cách công nhận học sinh giỏi tỉnh năm học 2022 - 2023 của Sở GD&ĐT.
Trên cơ sở những kết quả đạt được của năm học trước, năm học mới 2022-2023 ngành Giáo dục và Đào tạo Hà Tĩnh tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, toàn tỉnh có 668 trường, trong đó có 527 trường đạt chuẩn quốc gia (gồm 255 trường mầm non (tăng 186 trường so với năm học trước), 221 trường tiểu học (không đổi), 147 trường THCS (không đổi), 45 trường THPT (không đổi)); với 10.783 lớp (mẩu giáo 2917 lớp (tăng 49 lớp); tiểu học 4250 lớp (tăng 82 lớp); THCS 2.427 lớp (tăng 83 lớp); THPT 1.189 lớp (giảm 3 lớp); 18.778 giáo viên (mầm non 5.621 người (giảm 73 giáo viên); tiểu học 5.605 người (tăng 232 giáo viên); THCS 4.799 người (tăng 361 giáo viên); THPT 2.753 người (tăng 29 người) và 335.175 học sinh (mầm non 74.416 học sinh (giảm 3.182 học sinh); tiểu học 136.500 học sinh (tăng 5886 học sinh); THCS 82.423 học sinh (tăng 4.609 học sinh); THPT 41.836 học sinh (tăng 3715 học sinh).
Giáo dục đào tạo: Năm 2022 các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh đã duy trì tổ chức đào tạo nghề cho khoảng 19.671 người. Trong đó: trình độ cao đẳng nghề khoảng 662 người; trình độ trung cấp nghề khoảng 4.190 người; trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng khoảng 14.819 người. Các cơ sở đào tạo luôn quan tâm chú trọng công tác giới thiệu, giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp. Mở thêm các ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, có định hướng, khảo sát tiềm năng và tính bền vững của nghề đào tạo.
4. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Tình hình dịch Covid 19: Mặc dù tình hình dịch bệnh hiện nay đang được kiểm soát, nhưng virus liên tục biến đổi với các biến chủng mới; tiềm ẩn khả năng lây lan nhanh. Vì vậy, Hà Tĩnh tiếp tục rà soát những người trên 12 tuổi đủ điều kiện nhưng chưa tiêm vắc xin và trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi để triển khai tiêm vắc xin đạt tỷ lệ và hiệu quả cao nhất; tiếp tục tuyên truyền, vận động nâng cao tỷ lệ tiêm vắc xin mũi nhắc lại theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Đồng thời, đẩy mạnh triển khai các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 và tiếp tục thực hiện cập nhật, “làm sạch” dữ liệu tiêm chủng COVID-19 theo Văn bản số 4891/UBND-VX1 ngày 31/8/2022 của UBND tỉnh.
Tổng số ca mắc từ ngày 01/01/2022 đến ngày 21/12/2022 là 57.216 ca, lũy kế từ 04/6/2021 đến nay 58.175 ca mắc. Toàn tỉnh đã có 13/13 địa phương thực hiện việc cách ly, điều trị các ca bệnh tại nhà với 50.326 ca, trong đó đã có 50.053 ca khỏi bệnh.
Tình hình điều trị các ca bệnh: Chuyển các Bệnh viện tuyến trên 128 BN. Điều trị khỏi 57.837 BN, trong đó có 124 BN tuyến trên, 57.713 BN tại Hà Tĩnh, 54 BN tử vong.
Tình hình dịch bệnh khác: Trong tháng, trên địa bàn có một số ca bệnh đơn lẻ, cụ thể: 142 ca sốt xuất huyết, 21 ca mắc bệnh quai bị, 33 ca mắc lỵ trực trùng; 39 ca mắc lỵ a míp; 19ca mắc bệnh thủy đậu; 1.699 ca mắc bệnh cúm, tất cả các ca bệnh trên không tạo thành dịch, và không có người chết do các bệnh trên.
Từ đầu năm đến nay đã phát hiện 988 ca sốt xuất huyết (gồm 23 ổ dịch với 299 ca mắc và 689 ca đơn lẻ). Ngoài ra, năm 2022 còn có các ca bệnh đơn lẻ như sau: 3 ca mắc sốt rét (tăng 200,0%), 129 ca mắc bệnh quai bị (tăng 230,77%), 228 ca mắc lỵ trực trùng (tăng 71,43%); 261 ca mắc lỵ a míp (giảm 9,06%); 184 ca mắc bệnh thủy đậu (giảm 74,55%); 14.951 ca mắc bệnh cúm (giảm 7,92%), tất cả các ca bệnh trên không tạo thành dịch và không có ca bệnh nào bị tử vong vì các bệnh nói trên.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: Năm 2022, Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc tỉnh (Ban Chỉ đạo 138 tỉnh) đã ban hành Kế hoạch số 3817/KH-BCĐ ngày 15/11/2022 về Triển khai Tháng hành động Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS năm 2022 (từ ngày 15/11/2022 đến ngày 10/12/2022) với chủ đề “Chấm dứt dịch AIDS - Thanh niên sẵn sàng!”.
Trong tháng, có 3 người nhiễm mới HIV, 1 người chuyển thành AIDS và không có người chết vì AIDS; so với cùng kỳ năm trước giảm 1 người nhiễm mới HIV, giảm 2 người chuyển thành AIDS, số người chết vì AIDS không đổi.
Năm 2022 có 28 người nhiễm mới HIV, 13 người chuyển thành AIDS và 3 người chết vì AIDS, so với cùng kỳ năm trước giảm 27 người nhiễm mới HIV(giảm 49,09%), giảm 37 người chuyển thành AIDS (giảm 74,0%), tăng 1 người chết vì AIDS (tăng 50%).
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Công tác thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm về ATVSTP trên địa bàn tĩnh được tiến hành thường xuyên và có hiệu quả đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành các quy định về ATVSTP của người sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm.
Năm 2022 toàn tỉnh tổ chức thành lập 548 đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành và chuyên ngành đã tiến hành kiểm tra 11.464 lượt cơ sở; phát hiện 1.041 lượt cơ sở có vi phạm về an toàn thực phẩm; xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 734 lượt cơ sở (70,5% số cơ sở vi phạm) với số tiền hơn 1,5 tỷ đồng; tịch thu tiêu hủy nhiều hàng hóa vi phạm có giá trị cao.
Trong tháng, không xảy ra vụ ngộ độc tập thể, chỉ có 73 ca ngộ độc đơn lẻ. So với cùng kỳ năm trước số vụ ngộ độc tập thể không đổi, số ca ngộ độc đơn lẻ giảm 99 ca (giảm 57,56%), số ca tử vong không thay đổi.
Tính chung năm 2022 có 1 vụ ngộ độc tập thể làm 4 người bị ngộ độc, xảy ra tại một nhà hàng thuộc xã Cẩm Vĩnh, huyện Cẩm Xuyên; ngoài ra có 887 ca bị ngộ độc đơn lẻ, không có người chết vì ngộ độc; so với cùng kỳ năm trước giảm 2 vụ (giảm 66,67%) ngộ độc tập thể, giảm 49 ca (giảm 92,45%) ngộ độc tập thể, số ca ngộ độc đơn lẻ giảm 357 ca (giảm 28,75%), số ca tử vong không đổi.
5. Hoạt động văn hóa - thể thao
Hoạt động văn hóa: Trong tháng đã diễn ra một số hoạt động văn hóa sôi nổi như: ngày 27/11, đã diễn ra liên hoan các CLB dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh của huyện Hương Sơn đâylà dịp để trao đổi, học hỏi, giữ gìn và lan toả các làn điệu dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh; ngày 12/12 Chi hội văn nghệ dân gian Việt Nam tại Hà Tĩnh tổ chức lễ ra mắt câu lạc bộ dân ca – dân vũ Thành Sen và biểu dương một số nghệ nhân dân gian bảo tồn, phát huy các loại hình văn nghệ dân gian trong giai đoạn 2020-2022... Nhìn chung năm 2022 nhờ kiểm soát tốt dịch Covid-19, hoạt động văn hóa sôi nổi hơn so với năm trước.
Công tác kiểm tra, thanh tra văn hóa: Công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động văn hóa được Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Hà Tĩnh kiểm tra theo định kỳ, thường xuyên. Năm 2022, Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch đã tổ chức 6 cuộc thanh, kiểm tra. Qua kiểm tra 154 cơ sở kinh doanh, hoạt động dịch vụ thuộc ngành quản lý đã lập biên bản nhắc nhở đối với 65 cơ sở kinh doanh còn hạn chế, thiếu sót; đình chỉ hoạt động 15 phòng hát karaoke; lập biên bản vi phạm hành chính và ban hành 03 quyết định xử phạt VPHC đối với 03 trường hợp, nộp 17,5 triệu đồng vào ngân sách nhà nước.
Thể thao thành tích cao: Trong tháng, Đoàn thể thao Hà Tĩnh tham gia 11 giải thi đấu đạt 39 huy chương các loại (9 HCV, 15 HCB, 15 HCĐ); trong đó 3 giải quốc tế gồm giải vô địch Karate châu Á 2022 (1HCV, 2HCB); giải đua thuyền Châu Á (1 HCV), giải vô địch bắn súng Đông Nam Á (1 HCĐ); 8 giải trong nước đạt 7HCV-13HCB-14HCĐ.
Tính chung cả năm 2022, Đoàn thể thao Hà Tĩnh tham gia 39 giải đấu, đạt 246 huy chương các loại (92 huy chương vàng, 72 huy chương bạc, 82 huy chương đồng), trong đó 05 giải quốc tế đạt 20 huy chương (9HCV-7HCB-4HCĐ), SEA Games 31 đạt 16 huy chương (6 huy chương vàng, 7 huy chương bạc, 3 huy chương đồng).
Thể thao quần chúng: Nhìn chung năm 2022 nhờ kiểm soát tốt dịch Covid-19, hoạt động thể thao quần chúng có phần sôi động trở lại. Theo báo cáo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến nay tỷ lệ người dân tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 38 %; tỷ lệ gia đình thể thao đạt 27,9 %; cộng tác viên thể dục thể thao cơ sở là 470 người; số câu lạc bộ thể thao phong trào đạt trên 1.050 câu lạc bộ.
Từ ngày 15/11 - 14/12/2022 xảy ra 16 vụ tai nạn đường bộ, làm chết 12 người, bị thương 7 người, thiệt hại tài sản 250 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước giảm 1 vụ tai nạn, giảm 1 người chết, số người bị thương không đổi, thiệt hại tăng 54 triệu.
Tính từ ngày 15/12/2021 đến ngày 14/12/2022 toàn tỉnh đã xảy ra 108 vụ tai nạn đường bộ, 1 vụ tai nạn đường sắt làm chết 91 người, bị thương 46 người, thiệt hại tài sản 1.770 triệu đồng. So với với năm trước giảm 7 vụ tai nạn đường bộ (giảm 6,09%), tăng 1 vụ tai nạn đường sắt; giảm 5 người chết (giảm 5,21%), giảm 4 người bị thương (giảm 8%). Nguyên nhân chủ yếu là không làm chủ tốc độ, đi sai phần đường, sử dụng rượu bia quá nồng độ cho phép khi tham gia giao thông.
7. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Tình hình cháy, nổ: Tính từ ngày 15/11/2022 đến ngày 14/12/2022, trên địa bàn Hà Tĩnh xảy ra 17 vụ cháy, nổ không có người chết và bị thương với tổng giá trị thiệt hại ước tính 102,50 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2021 tăng 16 vụ; số người chết và bị thương không đổi. Tính chung cả năm 2022, xẩy ra 71 vụ cháy, nổ làm 1 người chết và 1 người bị thương, với tổng giá trị thiệt hại ước tính 5.025,6 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2021 tăng 8 vụ cháy, nổ; giảm 2 người bị thương; giảm 1 người chết. Nguyên nhân chủ yếu do chập điện và bất cẩn khi sử dụng lửa.
Công tác bảo vệ môi trường: Tính từ ngày 15/11 đến ngày 14/12/2022 trên địa bàn tỉnh đã phát hiện 97 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 59 vụ, với tổng số tiền xử phạt là 210,7 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2021 tăng 76 vụ đã phát hiện (tăng 361,90%), tăng 38 vụ đã xử lý (tăng 180,95 %), số tiền xử phạt giảm 1.259,80 triệu đồng (giảm 85,67%).
Năm 2022 (ngày 15/12/2021 - 14/12/2022) đã phát hiện 973 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 642 vụ, với tổng số tiền xử phạt 2.909,12 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước tăng 809 vụ vi phạm (tăng 493,29%), tăng 519 vụ đã xử lý (tăng 421,95%), tăng số tiền nộp phạt 41,27 triệu đồng (tăng 1,44%). Vi phạm môi trường đã phát hiện trong năm vận chuyển, khai thác cát trái phép, sử dụng xung kích điện đánh bắt thủy sản trái phép... gồm 888 vụ (chiếm 91,26%); vận chuyển, chôn, lấp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường 39 vụ (chiếm 4,01%); xả nước thải, xả khí thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường ra môi trường 33 vụ (3,39%), thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường 12 vụ (chiếm 1,23%). Gây tiếng ồn, độ rung vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường; xả thải khói, bụi, khí có mùi độc hại vào không khí 1 vụ ( chiếm 0,11%).
Trong tháng, không xảy ra thiên tai, so với cùng kỳ năm trước giảm 1 vụ thiên tai, số người bị thương và bị chết không đổi, giảm thiệt hại 92 triệu đồng. Năm 2022 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã xảy ra 7 vụ thiên tai, cụ thể là 01 vụ sóng to, gió lớn (ngày 3/4); 2 vụ mưa lớn (ngày 30/4-1/5, ngày 27/9-2/10); 3 vụ sét đánh (ngày 26/5, ngày 14/6 và 21/7 ); 01 vụ lốc xoáy (ngày 14/6) làm chết 4 người, 2 người bị thương, làm hư hỏng 1 chiếc tàu, 582 nhà hư hỏng, thiệt hại 522 ha diện tích lúa, 421 ha diện tích hoa màu, 2.000 con gia cầm bị chết. Ước tính tổng thiệt hại là 42.497 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước giảm 5 vụ thiên tai, tăng 1 người chết, giảm 2 người bị thương, tổng thiệt hại về tài sản giảm 144.783 triệu đồng.
III. DỰ BÁO, ĐẾ XUẤT GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
Năm 2023 là năm giữa nhiệm kỳ, năm bản lề đánh giá giữa kỳ triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà sẽ gặp khóa khăn và thách thức do tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, xung đột tại Ukraine có thể còn kéo dài; kinh tế trong nước nước dự báo còn chịu sức ép lạm phát, tỷ giá, lãi suất gia tăng; giá nhiều yếu tố đầu vào, chi phí sản xuất kinh doanh tiếp tục xu hướng tăng; hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thị trường lao động việc làm dự báo còn gặp nhiều khó khăn; biến đổi khí hậu, dịch bệnh tiếp tục diễn biến bất thường, ảnh hưởng nặng nề hơn.
Để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế xã hội theo Nghị quyết của HĐND tỉnh đề ra. Trong thời gian tới cần tập trung giải quyết một số nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ các dự án công nghiệp lớn, trọng điểm: Tập trung khắc phục sự cố và vận hành trở lại Tổ máy số 1 tại Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1; tạo mọi điều kiện để Nhà máy Pin VinES đi vào vận hành và sản xuất theo kế hoạch. Tích cực thu hút đầu tư lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và ngành công nghiệp sau thép, khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu. Tiếp tục tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển dịch vụ logictics.
Hai là, thực hiện đồng bộ giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, phát huy hiệu quả Bộ chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp sở, ngành và các địa phương (DDCI), góp phần nâng cao Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).
Ba là, tiếp tục rà soát đơn giản hóa các thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi đối với các nhà đầu tư. Tăng cường các hoạt động thu hút đầu tư, đặc biệt là các dự án lớn, các nhà đầu tư chiến lược như (Vingroup, Sun Group, Ecopark, VSIP, T&T, Quế Lâm...);
Bốn là, chủ động bám sát diễn biến thời tiết, tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh, không để xảy ra dịch tả lợn châu Phi, dịch viêm da nổi cục trên đàn trâu bò. Tập trung chỉ đạo thực hiện thắng lợi sản xuất các vụ trong năm; chú trọng phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Năm là, tập trung xử lý các điểm nghẽn, nút thắt về đất đai; giải quyết các xung đột pháp lý về thủ tục giao đất, xác định đơn giá đền bù, thủ tục thanh quyết toán xây dựng cơ bản để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Trước mắt, ưu tiên tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa, nâng cao năng lực sản xuất cho nền kinh tế./.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2016 ước tính tăng 6,21% so với năm 2015, trong đó quý I tăng 5,48%; quý II tăng 5,78%; quý III tăng 6,56%; quý IV tăng 6,68%. Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mức tăng 6,68% của năm 2015 và không đạt mục tiêu tăng trưởng 6,7% đề ra, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới không thuận, trong nước gặp nhiều khó khăn do thời tiết, môi trường biển diễn biến phức tạp thì đạt được mức tăng trưởng trên là một thành công, khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, hiệu quả của các biện pháp, giải pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương cùng thực hiện.
Trong mức tăng 6,21% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,36%, thấp nhất kể từ năm 2011 trở lại đây[1], đóng góp 0,22 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,57%, thấp hơn mức tăng 9,64% của năm trước, đóng góp 2,59 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,98%, đóng góp 2,67 điểm phần trăm.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành lâm nghiệp có mức tăng cao nhất với 6,11%, nhưng do chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,04 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành nông nghiệp với quy mô trong khu vực lớn nhất (khoảng 75%) chỉ tăng thấp ở mức 0,72%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,80%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm nay gặp nhiều khó khăn do diễn biến bất lợi của thời tiết và sự cố môi trường biển xảy ra cuối tháng Tư tại vùng biển các tỉnh Bắc Trung Bộ đã gây ảnh hưởng lớn tới kết quả sản xuất của khu vực này.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 7,06% so với năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt mức tăng cao 11,90%, đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng chung với 1,83 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng năm nay giảm tới 4,00%, đã làm giảm 0,33 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung, đây là mức giảm sâu nhất từ năm 2011 trở lại đây[2]. Nguyên nhân chủ yếu do giá dầu thế giới giảm khiến lượng dầu thô khai thác giảm hơn 1,67 triệu tấn so với năm trước; sản lượng khai thác than cũng chỉ đạt 39,6 triệu tấn, giảm 1,26 triệu tấn. Ngành xây dựng tăng trưởng khá với tốc độ 10,00%, đóng góp 0,60 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như sau: Bán buôn và bán lẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt mức tăng 8,28% so với năm 2015, đóng góp 0,77 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,79%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản được cải thiện hơn với mức tăng 4,00%, đóng góp 0,21 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống năm nay có mức tăng trưởng khá cao 6,70%, đóng góp 0,25 điểm phần trăm.
Xét về góc độ sử dụng GDP năm 2016, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,32% so với năm 2015, đóng góp 5,29 điểm phần trăm vào mức tăng chung (trong đó tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư đóng góp 4,81 điểm phần trăm); tích lũy tài sản tăng 9,71%, đóng góp 3,08 điểm phần trăm; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ ở tình trạng nhập siêu làm giảm 2,16 điểm phần trăm của mức tăng trưởng chung.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản lượng lúa cả năm 2016 ước tính đạt 43,6 triệu tấn, giảm 1,5 triệu tấn so với năm 2015 do diện tích gieo cấy đạt 7,8 triệu ha, giảm 40 nghìn ha; năng suất đạt 56 tạ/ha, giảm 1,6 tạ/ha. Nếu tính thêm 5,2 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng lương thực có hạt năm nay ước tính đạt 48,8 triệu tấn, giảm 1,5 triệu tấn so với năm 2015.
Trong sản xuất lúa, diện tích gieo cấy lúa đông xuân năm nay đạt 3,1 triệu ha, giảm 30 nghìn ha so với vụ đông xuân trước; năng suất đạt 63 tạ/ha, giảm 3,5 tạ/ha nên sản lượng đạt 19,4 triệu tấn, giảm 1,3 triệu tấn. Diện tích gieo cấy lúa hè thu và thu đông đạt 2,8 triệu ha, tăng 23,9 nghìn ha so với năm trước; năng suất đạt 53,5 tạ/ha, giảm 0,6%; sản lượng đạt 15 triệu tấn, tăng 34 nghìn tấn. Diện tích gieo cấy lúa mùa của cả nước đạt 1,9 triệu ha, giảm 33,5 nghìn ha so với vụ mùa năm trước; năng suất ước tính đạt 48,4 tạ/ha, giảm 0,4 tạ/ha; sản lượng đạt 9,2 triệu tấn, giảm 243 nghìn tấn.
Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 01/10/2016, đàn trâu cả nước có 2,5 triệu con, giảm 0,2% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 5,5 triệu con, tăng 2,4%, riêng đàn bò sữa đạt 282,9 nghìn con, tăng 2,8%; đàn lợn có 29,1 triệu con, tăng 4,8%; đàn gia cầm có 361,7 triệu con, tăng 5,8%. Sản lượng thịt hơi các loại năm nay đạt khá, trong đó sản lượng thịt trâu đạt 86,6 nghìn tấn, tăng 1% so với cùng thời điểm năm trước; sản lượng thịt bò đạt 308,6 nghìn tấn, tăng 3,1%; sản lượng thịt lợn đạt 3,7 triệu tấn, tăng 5%; sản lượng thịt gia cầm đạt 961,6 nghìn tấn, tăng 5,9%; sản lượng trứng gia cầm đạt 9.446,2 triệu quả, tăng 6,4%.
Năm 2016, diện tích rừng trồng tập trung của cả nước ước tính đạt 231,2 nghìn ha, giảm 3,9% so với năm 2015; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 154,5 triệu cây, giảm 4,2%; sản lượng gỗ khai thác đạt 9.568 nghìn m3, tăng 10,3%; sản lượng củi khai thác đạt 27,1 triệu ste, giảm 0,4%.
Diện tích rừng bị thiệt hại của cả nước năm 2016 là 4.519 ha, gấp 2,4 lần so với năm 2015, trong đó diện tích rừng bị cháy là 3.320 ha, gấp 3,1 lần; diện tích rừng bị chặt phá là 1.199 ha, tăng 47,5%.
Sản lượng thuỷ sản năm 2016 ước tính đạt 6.728,6 nghìn tấn, tăng 2,7% so với năm trước, trong đó cá đạt 4.843,3 nghìn tấn, tăng 2,5%; tôm đạt 823,9 nghìn tấn, tăng 3,3%.
Hoạt động nuôi trồng thủy sản những tháng đầu năm gặp khó khăn do thời tiết thay đổi thất thường, tình trạng ô nhiễm nguồn nước, thị trường xuất khẩu giảm mạnh, giá thu mua sản phẩm không ổn định. Những tháng cuối năm, tình hình đã khởi sắc hơn nhưng nhìn chung kết quả nuôi trồng thủy sản cả năm đạt thấp. Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2016 ước tính đạt 3.604,3 nghìn tấn, tăng 2,6% so với năm trước, trong đó cá đạt 2.576,8 nghìn tấn, tăng 2,1%; tôm đạt 649,3 nghìn tấn, tăng 3,4%.
Thời tiết trong năm tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác, đánh bắt thủy sản trên biển, giá xăng dầu thấp cùng với dịch vụ hậu cần nghề cá phát triển đã tạo điều kiện cho ngư dân ra khơi, bám biển dài ngày. Tuy nhiên, sự cố môi trường biển xảy ra cuối tháng Tư tại vùng biển các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt đã ảnh hưởng đến hoạt động khai thác thủy sản của các tỉnh ven biển miền Trung cũng như của cả nước. Năm 2016, sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 3.124,3 nghìn tấn, tăng 2,9% so với năm 2015, trong đó cá đạt 2.266,5 nghìn tấn, tăng 2,9%, tôm đạt 174,7 nghìn tấn, tăng 3,3% (Sản lượng thủy sản khai thác biển ước tính đạt 2.930,8 nghìn tấn, tăng 3,2%).
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Mười Hai ước tính tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2016, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,5% so với năm 2015 (quý I tăng 7,4%; quý II tăng 7,1%; quý III tăng 7,1%; quý IV ước tính tăng 8,2%), thấp hơn nhiều mức tăng 9,8% của năm 2015 và 7,6% của năm 2014 do ngành khai khoáng giảm sút mạnh. Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 11,2%, đóng góp 7,9 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,5%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,2%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm sâu ở mức 5,9%, làm giảm 1,3 điểm phần trăm mức tăng chung.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 11 tháng tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2015. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/12/2016 tăng 8,1% so với cùng thời điểm năm trước, là mức tồn kho thấp nhất trong nhiều năm qua (cùng thời điểm năm 2015 tăng 9,5%); tỷ lệ tồn kho bình quân 11 tháng năm 2016 là 66,1%.
a. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[3]
Tính chung cả năm 2016, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đạt mức kỷ lục với 110,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 16,2% so với năm 2015; tổng vốn đăng ký là 891,1 nghìn tỷ đồng, tăng 48,1% (nếu tính cả 1.629,8 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động thì tổng số vốn đăng ký và bổ sung thêm vào nền kinh tế trong năm 2016 là 2.520,9 nghìn tỷ đồng); số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới năm 2016 đạt 8,1 tỷ đồng, tăng 27,5% so với năm 2015. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2016 là 1.268 nghìn người, bằng 86,1% năm 2015. Trong năm nay còn có 26.689 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 24,1% so với năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm 2016 lên gần 136,8 nghìn doanh nghiệp.
b. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV/2016 cho thấy: Có 80,6% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý IV ổn định và tốt hơn quý trước (có 41,2% số doanh nghiệp đánh giá tốt lên; 39,4% số doanh nghiệp đánh giá ổn định), trong khi 19,4% số doanh nghiệp đánh giá còn gặp khó khăn. Dự báo trong quý I/2017, có 81,1% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và tốt lên, trong đó có 42,6% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 38,5% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 18,9% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2016 ước tính đạt 3.527,4 nghìn tỷ đồng, tăng 10,2% so với năm trước (Năm 2015 tăng 9,8%), nếu loại trừ yếu tố giá thì còn tăng 7,8%, thấp hơn mức tăng 8,5% của năm trước do sức mua không biến động lớn, trong khi giá tiêu dùng năm nay tăng cao hơn so với năm 2015.
Vận tải hành khách năm 2016 ước tính đạt 3.620,5 triệu lượt khách, tăng 9,6% so với năm trước và 171,3 tỷ lượt khách.km, tăng 11%. Vận tải hàng hóa cả năm đạt 1.275,4 triệu tấn, tăng 10,6% so với năm trước và 240,7 tỷ tấn.km, tăng 4,3%.
Doanh thu lĩnh vực viễn thông năm 2016 ước tính đạt 381,7 nghìn tỷ đồng, tăng 6,6% so với năm 2015.
Khách quốc tế đến nước ta trong năm ước tính đạt 10,01 triệu lượt người, tăng 26% so với năm trước (tăng hơn 2 triệu lượt khách). Đây là lần đầu tiên Việt Nam đón trên 10 triệu lượt khách quốc tế, gấp 2 lần lượng khách đến nước ta năm 2010. Trong đó, khách đến bằng đường hàng không đạt 8,26 triệu lượt người, tăng 31,7%; đến bằng đường bộ đạt 1,47 triệu lượt người, giảm 2,3%; đến bằng đường biển đạt 284,8 nghìn lượt người, tăng 67,7%.
II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
1. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm
Tính đến thời điểm 20/12/2016, tổng phương tiện thanh toán tăng 16,47% so với cuối năm 2015 (cùng kỳ năm trước tăng 13,55%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 16,88% (cùng kỳ năm 2015 tăng 13,59%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 16,46%.
Thị trường bảo hiểm năm 2016 duy trì tăng trưởng tích cực. Doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường ước tính tăng 22,1% so với năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng 30,5%; doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tăng 12,5%. Tỷ lệ thực bồi thường bảo hiểm gốc trong bảo hiểm phi nhân thọ ước tính 32,98% (cùng kỳ năm 2015 là 41,47%).
Giá trị sản xuất xây dựng năm 2016 theo giá so sánh 2010 ước tính tăng 10,1% so với năm 2015, bao gồm: Khu vực Nhà nước tăng 1,7%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 12,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 10,9%. Trong tổng giá trị sản xuất, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở tăng 13,6%; công trình nhà không để ở giảm 2,5%; công trình kỹ thuật dân dụng tăng 13,1%; hoạt động xây dựng chuyên dụng tăng 11,8%.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2016 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.485,1 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% so với năm 2015 và bằng 33% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 557,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,6% tổng vốn và tăng 7,2%; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 579,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 39% và tăng 9,7%; vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 347,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,4% và tăng 9,4%.
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện năm 2016 ước tính đạt 268,6 nghìn tỷ đồng, bằng 97,8% kế hoạch năm và tăng 15,1% so với năm 2015, trong đó vốn trung ương quản lý đạt 62,6 nghìn tỷ đồng, bằng 95,3% và tăng 14,9%; vốn địa phương quản lý đạt 206 nghìn tỷ đồng, bằng 98,6% và tăng 15,2%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 26/12/2016 thu hút 2.556 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15.182,3 triệu USD, tăng 27% về số dự án và giảm 2,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Bên cạnh đó, có 1.225 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 5.765,1 triệu USD, tăng 50,5% về số dự án và giảm 19,7% về vốn tăng thêm. Trong năm 2016 có 2.547 doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần (với tỷ lệ vốn lớn hơn 50% vốn điều lệ hoặc thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện) với tổng vốn đầu tư là 3.425,3 triệu USD. Như vậy, tính chung tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới, cấp vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần trong năm 2016 đạt 24.372,7 triệu USD, tăng 7,1% so với năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2016 ước tính đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015, đạt mức giải ngân vốn FDI cao nhất từ trước đến nay.
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2016 ước tính đạt 943,3 nghìn tỷ đồng, bằng 93% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 744,9 nghìn tỷ đồng, bằng 94,9%; thu từ dầu thô đạt 37,7 nghìn tỷ đồng, bằng 69,2%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 156,2 nghìn tỷ đồng, bằng 90,8%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2016 ước tính đạt 1.135,5 nghìn tỷ đồng, bằng 89,2% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 190,5 nghìn tỷ đồng, bằng 74,7%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính đạt 786 nghìn tỷ đồng, bằng 95,4%; chi trả nợ và viện trợ đạt 150,3 nghìn tỷ đồng, bằng 96,9%.
4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2016 ước tính đạt 175,9 tỷ USD, tăng 8,6% so với năm trước (Năm 2015 tăng 7,9%), trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 50,0 tỷ USD, tăng 4,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 125,9 tỷ USD, tăng 10,2% (Nếu không kể dầu thô, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 123,5 tỷ USD, tăng 11,8%). Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2016 đạt 179,2 tỷ USD, tăng 10,6% so với năm 2015.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2016 ước tính đạt 173,3 tỷ USD, tăng 4,6% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 71,1 tỷ USD, tăng 4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 102,2 tỷ USD, tăng 5,1%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2016 đạt 183 tỷ USD, tăng 10,5% so với năm 2015. Cán cân thương mại hàng hóa tính chung cả năm 2016 xuất siêu 2,68 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 21,02 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 23,70 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2016 ước tính đạt 12,3 tỷ USD, tăng 8,9% so với năm 2015, trong đó dịch vụ du lịch đạt 8,3 tỷ USD, chiếm 67,3% và tăng 12,2%; dịch vụ vận tải 2,4 tỷ USD, chiếm 20% và tăng 0,7%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2016 ước tính đạt 17,7 tỷ USD, tăng 7% so với năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 8,9 tỷ USD, chiếm 50,6% và tăng 3,8%; dịch vụ du lịch 4,5 tỷ USD, chiếm 25,4% và tăng 27,9%. Nhập siêu dịch vụ năm 2016 là 5,4 tỷ USD, bằng 44,1% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2016 tăng 0,23% so với tháng trước, trong đó nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với 5,30% (dịch vụ y tế tăng 6,93%) do trong tháng có 4 tỉnh, thành phố[4] thực hiện điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế bước 2 theo Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính (tác động làm CPI chung tăng khoảng 0,27%). Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,25% do nhu cầu mua sắm hàng mùa đông tăng lên; đồ uống và thuốc lá tăng 0,21%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,19% do giá gas còn ảnh hưởng từ đợt tăng giá tháng trước và nhu cầu sửa chữa nhà ở tăng cao trong những tháng cuối năm; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá giảm: Giao thông giảm 0,89%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,03%, trong đó lương thực tăng 0,22%[5], thực phẩm giảm 0,12%; bưu chính viễn thông giảm 0,03%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,02%. Riêng nhóm giáo dục giá không đổi so với tháng trước.
CPI tháng 12/2016 tăng 4,74% so với tháng 12/2015, bình quân mỗi tháng tăng 0,4%. CPI bình quân năm 2016 tăng 2,66% so với bình quân năm 2015. Mức tăng CPI tháng 12/2016 so với cùng kỳ năm 2015 và mức tăng CPI bình quân năm 2016 so với bình quân năm 2015 tăng cao hơn so với năm trước, nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng CPI bình quân của một số năm gần đây, đồng thời vẫn nằm trong giới hạn mục tiêu 5% mà Quốc hội đề ra.
Lạm phát cơ bản tháng 12/2016 tăng 0,11% so với tháng trước và tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2016 tăng 1,83% so với bình quân năm 2015.
Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới. Chỉ số giá vàng tháng 12/2016 giảm 2,52% so với tháng trước; tăng 10,98% so với cùng kỳ năm 2015; bình quân năm 2016 tăng 5,95% so với năm 2015. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2016 tăng 1,52% so với tháng trước và tăng 0,8% so với cùng kỳ năm 2015; bình quân năm 2016 tăng 2,23% so với năm 2015.
c. Chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2016 tăng 1,71% so với năm trước; chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp giảm 0,49%; chỉ số giá cước vận tải, kho bãi giảm 1,77%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 2,38%.
Chỉ số giá xuất khẩu năm 2016 giảm 1,83% so với năm trước; chỉ số giá nhập khẩu năm 2016 giảm 5,35% so với năm 2015. Tỷ giá thương mại hàng hóa[6] năm nay tăng 3,72% so với năm trước.
Dân số trung bình năm 2016 của cả nước ước tính 92,70 triệu người, tăng 987,8 nghìn người, tương đương tăng 1,08% so với năm 2015, bao gồm dân số thành thị 32,06 triệu người, chiếm 34,6%; dân số nông thôn 60,64 triệu người, chiếm 65,4%; dân số nam 45,75 triệu người, chiếm 49,4%; dân số nữ 46,95 triệu người, chiếm 50,6%.
Theo kết quả Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình năm 2016, tổng tỷ suất sinh năm nay ước tính đạt 2,09 con/phụ nữ; tỷ số giới tính của trẻ em mới sinh là 112,2 bé trai/100 bé gái; tỷ suất sinh thô là 15,74‰; tỷ suất chết thô là 6,83‰; tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi là 14,52‰; tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi là 21,80‰. Tuổi thọ trung bình của dân số cả nước năm 2016 là 73,4 năm, trong đó nam là 70,8 năm và nữ là 76,1 năm.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước năm 2016 ước tính là 54,4 triệu người, tăng 455,6 nghìn người so với năm 2015, bao gồm: Lao động nam 28,1 triệu người, chiếm 51,6%; lao động nữ 26,3 triệu người, chiếm 48,4%. Xét theo khu vực, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên khu vực thành thị là 17,5 triệu người, chiếm 32,1%; khu vực nông thôn là 36,9 triệu người, chiếm 67,9%.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động của cả nước năm 2016 ước tính 47,7 triệu người, tăng 275,9 nghìn người so với năm trước, trong đó lao động nam 25,8 triệu người, chiếm 54,1%; lao động nữ 21,9 triệu người, chiếm 45,9%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động khu vực thành thị là 16,0 triệu người, chiếm 33,4%; khu vực nông thôn là 31,8 triệu người, chiếm 66,6%.
Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2016 ước tính 53,3 triệu người, tăng 451,1 nghìn người so với năm 2015. Trong tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2016, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 41,9%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 24,7%; khu vực dịch vụ chiếm 33,4%. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2016 khu vực thành thị chiếm 31,9%; khu vực nông thôn chiếm 68,1%. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo năm 2016 ước tính đạt 20,6%, cao hơn mức 19,9% của năm trước.
Số người có việc làm trong quý I năm nay ước tính là 53,3 triệu người, tăng 861,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; quý II là 53,2 triệu người, tăng 708,7 nghìn người; quý III là 53,3 triệu người, tăng 104,6 nghìn người; quý IV là 53,4 triệu người, giảm 96,2 nghìn người.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2016 là 2,30%, trong đó khu vực thành thị là 3,18%; khu vực nông thôn là 1,86%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (Từ 15-24 tuổi) năm 2016 là 7,34%, trong đó khu vực thành thị là 11,30%; khu vực nông thôn là 5,74%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động năm 2016 là 1,64%, thấp hơn mức 1,89% của năm 2015 và 2,40% của năm 2014, trong đó khu vực thành thị là 0,73%; khu vực nông thôn là 2,10%. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản[7] năm 2016 ước tính là 55,9%, trong đó khu vực thành thị là 47,0%; khu vực nông thôn là 64,1%.
Năng suất lao động xã hội[8] của toàn nền kinh tế năm 2016 theo giá hiện hành ước tính đạt 84,5 triệu đồng/lao động (Tương đương khoảng 3853 USD/lao động). Tính theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2016 ước tính tăng 5,31% so với năm 2015. Theo khu vực kinh tế, năng suất lao động bình quân trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt thấp nhất với 32,9 triệu đồng/lao động; khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 112,0 triệu đồng/lao động; khu vực dịch vụ đạt 103,5 triệu đồng/lao động.
Mặc dù năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua đã có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm[9] nhưng còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Năm 2015, năng suất lao động của Việt Nam theo giá hiện hành đạt 3.660 USD, chỉ bằng 4,4% của Xin-ga-po; 17,4% của Ma-lai-xi-a; 35,2% của Thái Lan; 48,5% của Phi-li-pin và 48,8% của In-đô-nê-xi-a.
Năm 2016, cả nước có 265,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, tăng 16,7% so với năm trước, tương ứng với 1.099 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, tăng 16,4%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 19,4 nghìn tấn lương thực, riêng tháng 12/2016 hỗ trợ 988 tấn lương thực.
Tỷ lệ hộ nghèo năm 2016 ước tính 5,8%-6,0%. Nếu theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ hộ nghèo ước tính khoảng 10%.
Theo báo cáo sơ bộ, tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo trong năm 2016 là 7303 tỷ đồng, bao gồm: 3786 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 2470 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 1047 tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác. Bên cạnh đó, đã có hơn 18,3 triệu bảo hiểm y tế, sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí đã được phát tặng cho các đối tượng chính sách trên địa bàn cả nước.
Tại thời điểm khai giảng năm học 2016-2017, cả nước có trên 4,9 triệu trẻ em đi học mầm non, bao gồm 0,7 triệu trẻ em đi nhà trẻ và 4,2 triệu trẻ em đi học mẫu giáo; 15,7 triệu học sinh phổ thông đến trường, bao gồm 7,7 triệu học sinh tiểu học; 5,5 triệu học sinh trung học cơ sở và 2,5 triệu học sinh trung học phổ thông.
Tính đến cuối năm 2016, cả nước có 59/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, trong đó 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2.
Năm 2016, cả nước có gần 47,5 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (1 trường hợp tử vong); 106,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (36 trường hợp tử vong); 469 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 962 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (34 trường hợp tử vong); 59 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (5 trường hợp tử vong) và 152 trường hợp nhiễm vi rút Zika.
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 17/12/2016 là 231,6 nghìn người, trong đó 87,8 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số người tử vong do AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 89,5 nghìn người.
Năm 2016, trên địa bàn cả nước xảy ra 129 vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng, làm 4.139 người bị ngộ độc, trong đó 12 trường hợp tử vong.
Hoạt động văn hóa năm 2016 tập trung chào mừng các ngày Lễ lớn, các sự kiện trọng đại của đất nước; chào mừng thành công Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Các hoạt động văn hóa được tổ chức dưới nhiều hình thức, bảo đảm thiết thực, hiệu quả và tiết kiệm; tạo không khí hồ hởi, phấn khởi trong nhân dân.
Trong năm 2016, ngành Thể dục thể thao tiếp tục duy trì và đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Tại Thế vận hội Paralympic Rio 2016, đoàn thể thao Người khuyết tật Việt Nam đã xuất sắc đoạt 01 huy chương vàng; 01 huy chương bạc và 02 huy chương đồng, xếp thứ 55/83 đoàn giành được huy chương trong tổng số 162 quốc gia, vùng lãnh thổ tham dự.
Hoạt động thể thao thành tích cao đạt được nhiều kết quả nổi bật, giành được 1097 huy chương trong các giải đấu, bao gồm: 51 huy chương tại đấu trường thế giới (13 huy chương vàng, 15 huy chương bạc, 23 huy chương đồng); 405 huy chương tại đấu trường châu Á (146 huy chương vàng, 124 huy chương bạc, 135 huy chương đồng); 579 huy chương tại đấu trường ASEAN (277 huy chương vàng, 201 huy chương bạc, 151 huy chương đồng) và 12 huy chương tại các giải mở rộng khác. Đặc biệt, Thể thao Việt Nam lần đầu tiên giành được 1 huy chương vàng và 1 huy chương bạc, xếp vị trí thứ 48/206 quốc gia, vùng lãnh thổ tại Thế vận hội Olympic Rio 2016.
Năm 2016, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 21.589 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 10.349 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 11.240 vụ va chạm giao thông, làm 8.685 người chết; 6.180 người bị thương và 13.100 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông năm nay giảm 5,5% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 1,1%; số vụ va chạm giao thông giảm 9,2%); số người chết giảm 0,5%; số người bị thương tăng 3,3% và số người bị thương nhẹ giảm 13,2%. Bình quân 1 ngày trong năm 2016, trên địa bàn cả nước xảy ra 59 vụ tai nạn giao thông, gồm 28 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 31 vụ va chạm giao thông, làm 24 người chết, 17 người bị thương và 36 người bị thương nhẹ.
Trong năm 2016, rét đậm, rét hại trên diện rộng ở miền núi phía Bắc, mưa lũ, ngập lụt nghiêm trọng ở miền Trung, khô hạn ở Tây Nguyên và xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long đã ảnh hưởng nặng nề tới sản xuất và đời sống của dân cư. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai làm 248 người chết và mất tích; 470 người bị thương; gần 4,6 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; 361,7 nghìn ngôi nhà bị ngập, sạt lở, tốc mái; 258,3 nghìn ha lúa, 113,2 nghìn ha hoa màu và 49,8 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng; 52,1 nghìn con gia súc, 1.679,5 nghìn gia cầm và hơn 1 nghìn tấn thủy sản các loại bị chết. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm ước tính gần 18,3 nghìn tỷ đồng.
Trong năm 2016 đã phát hiện 14.580 vụ vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 8.249 vụ với tổng số tiền phạt hơn 462 tỷ đồng. Tính chung năm 2016, cả nước xảy ra 3.256 vụ cháy, nổ làm 135 người chết và 278 người bị thương, thiệt hại ước tính 1.474 tỷ đồng.
[1] Mức tăng so với năm trước của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản một số năm: Năm 2011 tăng 4,23%; năm 2012 tăng 2,92%; năm 2013 tăng 2,63%; năm 2014 tăng 3,44%; năm 2015 tăng 2,41%.
[2] Mức tăng/giảm so với năm trước của ngành khai khoáng một số năm: Năm 2011 tăng 2,90%; năm 2012 tăng 5,14%; năm 2013 giảm 0,23%; năm 2014 tăng 2,26%; năm 2015 tăng 6,50%.
[3] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[4] Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.
[5] Chủ yếu do nhu cầu cho chế biến phục vụ hàng Tết Nguyên đán tăng và giá gạo ở một số tỉnh miền Trung tăng cao do ảnh hưởng mưa lũ.
[6] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.
[7] Lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sảnbao gồm những người không làm việc trong khu vực hộ nông nghiệp và thuộc một trong ba nhóm sau: (i) lao động gia đình không được hưởng công hưởng lương; (ii) người chủ hoặc xã viên hợp tác xã của cơ sở chưa có đăng ký kinh doanh và (iii) người làm công ăn lương không được ký hợp đồng lao động hoặc được ký hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội theo hình thức bắt buộc.
[8] GDP bình quân 1 lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc.
[9] Năng suất lao động xã hội của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2011-2016 lần lượt là: 55,2 triệu đồng/người; 63,1 triệu đồng/người; 68,7 triệu đồng/người; 74,7 triệu đồng/người; 79,4 triệu đồng/người; 84,5 triệu đồng/người.
[10] Chưa kể thiệt hại do tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng tại khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Giấy phép số 81/GP-TTĐT, Bộ TT&TTTrưởng ban Biên tập: TS. Đỗ Phương ThảoPhó Trưởng Ban Biên tập: ThS. Phạm Hoàng Tinh, ThS. Đào Thanh Quyên, ThS. Văn Tiến BằngThư ký Ban Biên tập: ThS. Đào Đình Hùng, Nhà báo Nguyễn Lan Phương
Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáo.Địa chỉ: Số 2B Hoàng Văn Thụ, Ba Đình, Hà Nội.Điện thoại: 080.45417 - Fax: 080.45613E-mail:[email protected]
Trung tâm Kỹ thuật Thông tấn.Địa chỉ: Số 5 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội.Điện thoại: 02439.333.263
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2020 ước tính tăng 2,62% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất của quý III các năm trong giai đoạn 2011-2020[1]. Dịch Covid-19 được kiểm soát chặt chẽ, nền kinh tế từng bước hoạt động trở lại trong điều kiện bình thường mới nên GDP quý III/2020 tăng trưởng khởi sắc so với quý II/2020, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,93%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 2,95%; khu vực dịch vụ tăng 2,75%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,70%. Về sử dụng GDP quý III năm nay, tiêu dùng cuối cùng tăng 1,19% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 5,79%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 2,86%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 1,88%.
GDP 9 tháng năm 2020 tăng 2,12% (Quý I tăng 3,68%; quý II tăng 0,39%; quý III tăng 2,62%), là mức tăng thấp nhất của 9 tháng các năm trong giai đoạn 2011-2020[2]. Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội, nền kinh tế nước ta tiếp tục duy trì tăng trưởng cho thấy tính đúng đắn trong chỉ đạo, điều hành khôi phục kinh tế, phòng chống dịch bệnh và sự quyết tâm cao của toàn bộ hệ thống chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự nỗ lực, cố gắng của người dân và cộng đồng doanh nghiệp để thực hiện có hiệu quả mục tiêu “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế – xã hội”. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,84%, đóng góp 13,62% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,08%, đóng góp 58,35%; khu vực dịch vụ tăng 1,37%, đóng góp 28,03%.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2020 tăng thấp so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, dịch Covid-19 và dịch tả lợn châu Phi. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 1,65%, chỉ cao hơn mức tăng trưởng 0,02% và 0,91% của 9 tháng năm 2016 và năm 2019 trong giai đoạn 2011-2020[3], đóng góp 0,19 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 2,02% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,01 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,44%, cao hơn mức tăng 2,11% và 1,81% của 9 tháng năm 2015 và 2016 trong giai đoạn 2011-2020[4], đóng góp 0,08 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp 9 tháng năm 2020 tăng 2,69% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ các năm 2011-2020[5], đóng góp 0,91 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,6%, thấp hơn mức tăng của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2020[6], đóng góp 1,02 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 5,35%, làm giảm 0,32 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế do sản lượng dầu thô khai thác giảm 14,1% và khí đốt tự nhiên giảm 9,1%. Ngành xây dựng tăng 5,02%, cao hơn mức tăng trưởng âm 0,01% và 2,78% của 9 tháng năm 2011 và 2012 trong giai đoạn 2011-2020[7], đóng góp 0,33 điểm phần trăm.
Trong những tháng đầu năm 2020, dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Khu vực dịch vụ trong 9 tháng đạt mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm 2011-2020[8]. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của 9 tháng như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 4,98% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,54 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,68%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 4%, làm giảm 0,14 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 17,03%, làm giảm 0,76 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế 9 tháng năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,05%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,16%; khu vực dịch vụ chiếm 42,73%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,06% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2019 là: 13,21%; 33,97%; 42,75%; 10,07%).
Về sử dụng GDP 9 tháng năm 2020, tiêu dùng cuối cùng tăng 0,86% so với cùng kỳ năm 2019; tích lũy tài sản tăng 3,39%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 0,9%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 1,25%.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2020 gặp nhiều khó khăn do tác động của hạn hán, xâm nhập mặn; dịch tả lợn châu Phi; dịch Covid-19 trên thế giới diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng đến sản xuất và hoạt động xuất, nhập khẩu nông sản. Trước những khó khăn đó, ngành Nông nghiệp đã có những giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả nên kết quả sản xuất đạt khá. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đã thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế trong lúc khó khăn, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, là cơ sở quan trọng để an sinh, an dân trong đại dịch.
Diện tích gieo trồng lúa đông xuân cả nước đạt 3.024,1 nghìn ha, giảm 3,2% so với vụ đông xuân trước; năng suất đạt 66,4 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha; sản lượng đạt 19,9 triệu tấn, giảm 593,5 nghìn tấn.
Tính đến trung tuần tháng Chín, diện tích gieo cấy lúa mùa cả nước đạt 1.512,6 nghìn ha, bằng 97,1% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1.050,8 nghìn ha, bằng 98,1%, các địa phương phía Nam đạt 461,8 nghìn ha, bằng 95%. Diện tích gieo cấy lúa mùa miền Bắc năm nay đạt thấp chủ yếu do các địa phương chuyển một phần diện tích trồng lúa sang sử dụng cho mục đích khác, năng suất ước tính đạt 51,3 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước.
Vụ lúa hè thu năm nay cả nước gieo cấy được 1.944,8 nghìn ha, giảm 64,8 nghìn ha so với vụ hè thu năm trước. Tính đến ngày 15/9/2020, các địa phương đã thu hoạch được 1.618,7 nghìn ha lúa hè thu, chiếm 83,2% diện tích gieo cấy và bằng 91,7% cùng kỳ năm trước. Năng suất lúa hè thu cả nước năm nay ước tính đạt 55,7 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha so với vụ hè thu năm 2019; sản lượng toàn vụ ước tính đạt 10,83 triệu tấn, giảm 119,3 nghìn tấn.
Đến giữa tháng Chín, vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy được 590,1 nghìn ha lúa thu đông, bằng 95,1% cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng từ tiến độ sản xuất vụ hè thu muộn; nhiều diện tích không đủ thời vụ sản xuất nên người dân tạm cho đất nghỉ ngơi, mở ruộng đón phù sa chuẩn bị cho vụ đông xuân sắp tới.
Dịch tả lợn châu Phi cơ bản được kiểm soát. Ước tính tháng 9/2020 đàn lợn cả nước tăng 3,6% so với cùng thời điểm năm 2019; đàn trâu giảm 2,2%; đàn bò tăng 2,5%; đàn gia cầm tăng 5,7%. Ước tính 9 tháng, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 2.483,1 nghìn tấn, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm 2019 (quý III đạt 846,2 nghìn tấn, tăng 9,7%); sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng đạt 69 nghìn tấn, tăng 1,8% (quý III đạt 20 nghìn tấn, tăng 3,5%); sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng đạt 272,6 nghìn tấn, tăng 5,7% (quý III đạt 85,1 nghìn tấn, tăng 9,6%); sản lượng sữa bò tươi đạt 799,2 nghìn tấn, tăng 9,9% (quý III đạt 277,1 nghìn tấn, tăng 13,6%); sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng đạt 1.056,7 nghìn tấn, tăng 11,4% (quý III đạt 348,6 nghìn tấn, tăng 7,7%); sản lượng trứng gia cầm đạt 10,7 tỷ quả, tăng 10,8% (quý III đạt 3,5 tỷ quả, tăng 9,6%).
Tính đến ngày 23/9/2020, cả nước không còn dịch tai xanh. Một số loại dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở các địa phương: Dịch cúm gia cầm ở Hải Phòng, Nghệ An, Quảng Ngãi, Vĩnh Long, Cà Mau; dịch lở mồm long móng ở Cao Bằng, Quảng Trị, Kon Tum, Đắk Lắk, Đồng Nai và dịch tả lợn châu Phi còn ở 251 xã thuộc 92 huyện của 27 địa phương.
Diện tích rừng trồng tập trung quý III/2020 của cả nước ước tính đạt 63,2 nghìn ha, giảm 6,9% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 22 triệu cây, tăng 0,5%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4.529 nghìn m3, tăng 1,5%; sản lượng củi khai thác đạt 4,6 triệu ste, tăng 0,9%. Tính chung 9 tháng, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 169,5 nghìn ha, giảm 2,6% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 66,5 triệu cây, giảm 1,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 12.050 nghìn m3, tăng 1,8%; sản lượng củi khai thác đạt 14,4 triệu ste, giảm 0,3%.
Diện tích rừng bị thiệt hại quý III/2020 là 356 ha, giảm 84,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm nay, diện tích bị thiệt hại là 1.291 ha, giảm 60,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 603,7 ha, giảm 78,2%; diện tích rừng bị chặt, phá là 687,3 ha, tăng 45,1%.
Sản lượng thủy sản quý III/2020 ước tính đạt 2.261,6 nghìn tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm nay, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 6.131,6 nghìn tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 3.218 nghìn tấn, tăng 1,4%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 2.913,6 nghìn tấn, tăng 1,9%.
Do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 nên tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý III/2020 chỉ đạt 2,34% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 2,69%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,6% và là mức tăng thấp nhất của 9 tháng các năm 2011-2020. Tuy nhiên do dịch bệnh được kiểm soát tốt, các lĩnh vực của nền kinh tế đang bước vào trạng thái hoạt động trong điều kiện bình thường mới, sản xuất công nghiệp tháng 9/2020 đã có sự khởi sắc, mở ra hy vọng sẽ sớm phục hồi và tăng trưởng trở lại trong những tháng cuối năm.
Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng năm 2020 ước tính tăng 2,69% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 5,1%; quý II tăng 1,1%; quý III tăng 2,34%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,6% (quý I tăng 7,12%; quý II tăng 3,38%; quý III tăng 3,86%), đóng góp 1,02 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,7%, đóng góp 0,18 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,4%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 5,35% (do sản lượng khai thác dầu thô giảm mạnh 14,1% và khí đốt tự nhiên giảm 9,1%) làm giảm 0,32 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2020 tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,5%)
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/9/2020 tăng 24,3% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2019 tăng 17,2%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 9 tháng năm nay khá cao với 75,6% (cùng kỳ năm trước là 72,1%).
Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong tháng 9/2020 giảm 12,6% so với cùng kỳ năm 2019, chủ yếu do ảnh hưởng của dịch Covid-19, bên cạnh đó tháng Chín năm nay trùng với tháng Bảy âm lịch, người dân có tâm lý hạn chế khởi sự kinh doanh. Tuy nhiên quy mô vốn đăng ký tiếp tục được các doanh nghiệp mở rộng, tăng 45% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2020, tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động đạt 133,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước; quy mô vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 14,4 tỷ đồng, tăng 14,4%. Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý IV/2020 với 81% doanh nghiệp đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[9]
Trong tháng 9/2020, cả nước có 10,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 203,3 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký là 83 nghìn lao động, giảm 23,1% về số doanh nghiệp, giảm 29,6% về vốn đăng ký và giảm 13,8% về số lao động so với tháng trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 19,7 tỷ đồng, giảm 8,5% so với tháng trước và tăng 65,9% so với cùng kỳ năm 2019. Trong tháng, cả nước còn có 4.568 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 4,3% so với tháng trước và tăng 89,3% so với cùng kỳ năm 2019; có 3.269 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 5,4% và tăng 114,9%; có 4.097 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 19,7% và tăng 50,8%; có 1.736 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 22,6% và tăng 14,1%; có 6.933 doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 77% và tăng 59,1%.
Tính chung 9 tháng, cả nước có gần 99 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.428,5 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 777,9 nghìn lao động, giảm 3,2% về số doanh nghiệp, tăng 10,7% về vốn đăng ký và giảm 16,3% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 9 tháng đạt 14,4 tỷ đồng, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 2.173,4 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 29,5 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 9 tháng năm nay là 3.601,9 nghìn tỷ đồng, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 34,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 25,5% so với 9 tháng năm 2019, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 9 tháng lên 133,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Trung bình mỗi tháng có 14,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn trong 9 tháng là 38,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 81,8% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể là 27,6 nghìn doanh nghiệp, giảm 2,4%; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là gần 12,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 0,1%; số doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký là 36,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 39,6%.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2020 cho thấy: Có 32,2% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý III/2020 tốt hơn quý II/2020; 31,9% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 35,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý IV/2020 so với quý III/2020, có 45,6% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 19% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 35,4% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định.
Hoạt động thương mại và vận tải trong nước tháng Chín có những tín hiệu tích cực, thị trường hàng hóa và đời sống của người dân dần ổn định, các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn nhiều tỉnh/thành phố đã mở cửa trở lại. Riêng khách quốc tế đến nước ta vẫn giảm do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế nên lượng khách đến chủ yếu là chuyên gia, lao động kỹ thuật nước ngoài làm việc tại các dự án ở Việt Nam.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý III/2020 ước tính đạt 1.305,8 nghìn tỷ đồng, tăng 14,4% so với quý trước và tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 3.673,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 3,6% (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,8%).
Vận tải hành khách quý III năm nay ước tính đạt 815,3 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 34% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 35,8 tỷ lượt khách.km, giảm 42,1%. Tính chung 9 tháng, vận tải hành khách đạt 2.625,8 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 29,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,5%) và luân chuyển 119,4 tỷ lượt khách.km, giảm 35,2% (cùng kỳ năm trước tăng 9,8%). Vận tải hàng hóa quý III năm nay ước tính đạt 454,2 triệu tấn hàng hóa, giảm 6,4% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 82,6 tỷ tấn.km, giảm 10,4%. Tính chung 9 tháng, vận tải hàng hóa đạt 1.264,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 8,9%) và luân chuyển 242,5 tỷ tấn.km, giảm 8,2% (cùng kỳ năm trước tăng 7,5%).
Doanh thu hoạt động viễn thông quý III/2020 ước tính đạt 91,9 nghìn tỷ đồng, giảm 1,8% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 3,6%); ước tính 9 tháng năm 2020, doanh thu đạt 278,2 nghìn tỷ đồng, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 4,1%).
Khách quốc tế đến nước ta trong 9 tháng năm 2020 ước tính đạt 3.788,5 nghìn lượt người, giảm 70,6% so với cùng kỳ năm trước.
Hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng trong 9 tháng năm 2020 chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, tăng trưởng tín dụng tính đến thời điểm 22/9/2020 đạt mức thấp 5,12%. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh lãi suất điều hành, nhằm ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng trưởng khá, đảm bảo quyền lợi người tham gia bảo hiểm. Tổng mức huy động vốn trên thị trường chứng khoán cho nền kinh tế 9 tháng năm 2020 tăng 1,43% so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến thời điểm 22/9/2020, tổng phương tiện thanh toán tăng 7,74% so với cuối năm 2019 (cùng thời điểm năm 2019 tăng 8,41%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 7,7% (cùng thời điểm năm 2019 tăng 8,79%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 5,12% (cùng thời điểm năm 2019 tăng 8,51%).
Doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường 9 tháng năm 2020 ước tính tăng 14% so với cùng kỳ năm trước (quý III/2020 tăng 12%), trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 17%; lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 7%.
Tổng mức huy động vốn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán 9 tháng năm nay ước tính đạt 228,8 nghìn tỷ đồng, tăng 1,43% so với cùng kỳ năm trước; giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 5.835 tỷ đồng/phiên, tăng 25,3% so với bình quân năm 2019; giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 9.674 tỷ đồng/phiên, tăng 5,1%; khối lượng giao dịch bình quân trên thị trường chứng khoán phái sinh đạt 170.348 hợp đồng/phiên, tăng 92%.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 9 tháng năm 2020 tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2019, mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020 do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 đến tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Chín và 9 tháng đều đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2016-2020. Vốn đầu tư thực hiện khu vực Nhà nước có xu hướng tăng cao là kết quả đẩy mạnh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, nhằm duy trì đà tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã được kiểm soát tốt tại Việt Nam.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý III/2020 theo giá hiện hành ước tính đạt 597,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2020, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành ước tính đạt 1.445,4 nghìn tỷ đồng, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước và bằng 34,7% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 484,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 33,5% tổng vốn và tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 641,5 nghìn tỷ đồng, bằng 44,4% và tăng 2,8%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 319,1 nghìn tỷ đồng, bằng 22,1% và giảm 2,5%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/9/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 21,2 tỷ USD, giảm 18,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 1.947 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 10,4 tỷ USD, giảm 29,4% về số dự án và giảm 5,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 798 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt trên 5,1 tỷ USD, tăng 6,8%; có 5.172 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn 5,7 tỷ USD, giảm 44,9%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 1.296 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 2,1 tỷ USD và 3.876 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 3,6 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 9 tháng ước tính đạt gần 13,8 tỷ USD, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước.
Về đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 9 tháng năm 2020 có 96 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới với tổng số vốn đăng ký của phía Việt Nam đạt 268,3 triệu USD; có 28 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm 163,8 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) đạt 432,1 triệu USD, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước.
Dịch Covid-19 tiếp tục được kiểm soát trên phạm vi cả nước, một số địa phương trong vùng dịch nới lỏng biện pháp giãn cách xã hội, từng bước khôi phục trở lại các hoạt động kinh tế đã tác động đến kết quả thu, chi ngân sách Nhà nước trong tháng 9/2020.
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2020 ước tính đạt 902,5 nghìn tỷ đồng, bằng 59,7% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 747,3 nghìn tỷ đồng, bằng 59,1%; thu từ dầu thô 26,3 nghìn tỷ đồng, bằng 74,9%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 128 nghìn tỷ đồng, bằng 61,6%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2020 ước tính đạt 1.036,4 nghìn tỷ đồng, bằng 59,3% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 716,3 nghìn tỷ đồng, bằng 67,8%; chi đầu tư phát triển 235,3 nghìn tỷ đồng, bằng 50%; chi trả nợ lãi 78,4 nghìn tỷ đồng, bằng 66,3%.
Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên thế giới làm đứt gãy thương mại quốc tế, hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vẫn giữ được mức tăng dương, trong đó nổi lên vai trò của khu vực kinh tế trong nước khi kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu 9 tháng đều tăng so với cùng kỳ năm trước. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 9/2020 ước tính đạt 51,5 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm nay, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 388,73 tỷ USD, tăng 1,8%, trong đó xuất khẩu đạt 202,86 tỷ USD, tăng 4,2%; nhập khẩu đạt 185,87 tỷ USD, giảm 0,8%[11]. Khu vực kinh tế trong nước có giá trị kim ngạch xuất khẩu 9 tháng tăng cao 20,2%, nhập khẩu tăng 4,7%. Cán cân thương mại 9 tháng tiếp tục xuất siêu, đạt mức 16,99 tỷ USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 8/2020 đạt 27.702 triệu USD, cao hơn 1.202 triệu USD so với số ước tính. Ước tính tháng 9/2020, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 27,5 tỷ USD, giảm 0,7% so với tháng trước và tăng 18% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu quý III/2020 ước tính đạt 80,07 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước và tăng 34,4% so với quý II năm nay (tăng 26,6% so với quý I). Tính chung 9 tháng năm 2020, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 202,86 tỷ USD, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước tiếp tục là động lực cho sự tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu cả nước khi đạt 71,83 tỷ USD, tăng mạnh 20,2%, chiếm 35,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 131,03 tỷ USD, giảm 2,9%, chiếm 64,6%. Trong 9 tháng có 30 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 91,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 59,8%).
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 9 tháng, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 108,79 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 73,41 tỷ USD, tăng 2,2%. Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 14,63 tỷ USD, giảm 4,7%. Nhóm hàng thủy sản đạt 6,03 tỷ USD, giảm 3%.
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 9 tháng năm 2020, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 54,8 tỷ USD, tăng 22,9% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là Trung Quốc đạt 31,9 tỷ USD, tăng 12,7%. Thị trường EU đạt 26 tỷ USD, giảm 2,6%. Thị trường ASEAN đạt 17 tỷ USD, giảm 12,5%. Hàn Quốc đạt 14,5 tỷ USD, giảm 2%. Nhật Bản đạt 14,1 tỷ USD, giảm 5,7%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 8/2020 đạt 22.717 triệu USD, thấp hơn 283 triệu USD so với số ước tính. Ước tính tháng Chín, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 24 tỷ USD, tăng 5,6% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý III/2020 ước tính đạt 68,54 tỷ USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước và tăng 18,5% so với quý II năm nay (tăng 15,2% so với quí I). Tính chung 9 tháng năm 2020, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 185,87 tỷ USD, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 82,35 tỷ USD, tăng 4,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 103,52 tỷ USD, giảm 4,8%. Trong 9 tháng năm 2020 có 32 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 88,3% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu 9 tháng năm 2020, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 173,71 tỷ USD, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 93,5% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu; nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 12,16 tỷ USD, tăng 4,4% và chiếm 6,5%.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 9 tháng năm 2020, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 56,8 tỷ USD, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 32,8 tỷ USD, giảm 7,1%. Thị trường ASEAN đạt 21,8 tỷ USD, giảm 8,7%. Nhật Bản đạt 14,6 tỷ USD, tăng 2,8%. Thị trường EU đạt 10,8 tỷ USD, tăng 5,6%. Hoa Kỳ đạt 10,5 tỷ USD, giảm 1,6%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Tám xuất siêu 5 tỷ USD[12]; 8 tháng xuất siêu 13,5 tỷ USD; tháng Chín ước tính xuất siêu 3,5 tỷ USD. Tính chung 9 tháng năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa tiếp tục xuất siêu 16,99 tỷ USD[13] (cùng kỳ năm trước xuất siêu 7,27 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 10,52 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 27,51 tỷ USD.
Trong quý III/2020, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ đạt 787 triệu USD, giảm 84,2% so với cùng kỳ năm trước (quý II giảm 80,4%; quý I giảm 23,6%); kim ngạch nhập khẩu dịch vụ đạt 4,6 tỷ USD, giảm 16,3% (quý II giảm 23,2%; quý I giảm 3,2%).
Trong 9 tháng năm 2020, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 5,47 tỷ USD, giảm 62,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ du lịch đạt 2,5 tỷ USD (chiếm 45,1% tổng kim ngạch), giảm 70,9%; dịch vụ vận tải đạt 665 triệu USD (chiếm 12,2%), giảm 79,6%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 9 tháng năm nay ước tính đạt 13,63 tỷ USD, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 5,9 tỷ USD (chiếm 43,3% tổng kim ngạch), giảm 0,3%; dịch vụ du lịch đạt 3,2 tỷ USD (chiếm 23,6%), giảm 33,4%. Nhập siêu dịch vụ trong 9 tháng năm 2020 là 8,16 tỷ USD, bằng 149,2% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2020 tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 0,01% so với tháng 12 năm trước – đều là mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020[14], chủ yếu do giá dịch vụ giáo dục được điều chỉnh tăng theo lộ trình nhằm tiệm cận với giá thị trường, giá điện sinh hoạt tăng do nhu cầu sử dụng điện trong thời tiết nắng nóng; giá gạo trong nước tăng do giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ở mức cao nhất kể từ năm 2011. Bình quân 9 tháng năm 2020, chỉ số giá tiêu dùng tăng 3,85% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ giá thương mại hàng hóa bình quân 9 tháng giảm 0,72% so với cùng kỳ năm 2019 phản ánh giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài không thuận lợi so với giá nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về Việt Nam.
CPI tháng 9/2020 tăng 0,12% so với tháng trước, tăng 0,01% so với tháng 12/2019 và tăng 2,98% so với cùng kỳ năm 2019. Tính chung quý III/2020, CPI tăng 0,92% so với quý trước và tăng 3,18% so với cùng kỳ năm 2019. CPI bình quân 9 tháng năm 2020 tăng 3,85% so với bình quân cùng kỳ năm 2019.
Lạm phát cơ bản tháng 9/2020 giảm 0,02% so với tháng trước và tăng 1,97% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 9 tháng năm 2020 tăng 2,59% so với bình quân cùng kỳ năm 2019.
Chỉ số giá vàng tháng 9/2020 giảm 0,33% so với tháng trước; tăng 32,37% so với tháng 12/2019 và tăng 30,33% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2020 giảm 0,05% so với tháng trước; tăng 0,12% so với tháng 12/2019 và giảm 0,17% so với cùng kỳ năm 2019.
Tình hình lao động, việc làm cả nước trong quý III/2020 có dấu hiệu phục hồi, thu nhập của người làm công hưởng lương dần được cải thiện. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của khu vực thành thị quý III mặc dù giảm so với quý II nhưng so với cùng kỳ năm trước vẫn ở mức cao nhất trong 10 năm trở lại đây[15].
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý III/2020 ước tính là 54,6 triệu người, tăng 1,4 triệu người so với quý trước và giảm 1,1 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2020, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 54,4 triệu người, giảm 1,2 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động quý III/2020 ước tính là 48,5 triệu người, tăng 1,8 triệu người so với quý trước và giảm 638,9 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2020, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 48,1 triệu người, giảm 940,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước, tương đương 1,9%.
Lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý III/2020 ước tính là 53,3 triệu người. Tính chung 9 tháng năm nay, lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc là 53,1 triệu người, bao gồm 17,5 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng là 16,4 triệu người, tăng 0,3%, trong đó tăng chủ yếu đối với lao động phi chính thức ngành xây dựng (tăng 4,6%), còn lao động chính thức trong ngành xây dựng giảm 9,3%; khu vực dịch vụ là 19,2 triệu người, giảm 1%. Chuyển dịch lao động tiếp tục theo xu hướng từ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản sang khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ với tỷ trọng lao động tương ứng trong các khu vực là: 33%; 30,8%; 36,2%.
Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước 9 tháng năm 2020 là 2,27% (quý I là 2,02%; quý II là 2,51%; quý III là 2,29%), trong đó khu vực thành thị là 3,66%; khu vực nông thôn là 1,58%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 9 tháng là 2,48% (quý I là 2,22%; quý II là 2,73%; quý III là 2,5%), trong đó khu vực thành thị là 3,88%; khu vực nông thôn là 1,75%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) 9 tháng năm 2020 ước tính là 7,07%, trong đó khu vực thành thị là 10,7%; khu vực nông thôn là 5,53%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I/2020 là 2,21%; quý II là 3,08%; quý III ước tính là 2,79%. Tính chung 9 tháng năm nay, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính là 2,69%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,84%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 3,12%.
b) Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
Đời sống dân cư 9 tháng năm 2020 tuy chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực từ dịch Covid-19 nhưng nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành và sự nỗ lực của nhân dân nên nhìn chung đời sống dân cư cả nước vẫn giữ được ổn định. Trong tháng Chín và trong cả quý III năm nay không có địa phương nào phát sinh thiếu đói. Tính chung 9 tháng năm 2020, cả nước có 16,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, tương ứng với 66,5 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 75,5% về số lượt hộ thiếu đói và giảm 75,6% về số lượt nhân khẩu thiếu đói so với cùng kỳ năm trước. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 733,6 tấn gạo.
Công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Theo báo cáo sơ bộ, tổng các suất quà trao tặng cho các đối tượng chính sách, người có công, các đối tượng bảo trợ xã hội trong 9 tháng năm 2020 là hơn 9,4 nghìn tỷ đồng, bao gồm hơn 3,5 nghìn tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 2,7 nghìn tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo, hộ cận nghèo và 3,2 nghìn tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác. Bên cạnh đó, có hơn 24 triệu thẻ bảo hiểm y tế, sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát tặng cho các đối tượng chính sách trên địa bàn cả nước.Tính đến ngày 15/9/2020, cả nước giải ngân được hơn 12,5 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.
Dịch Covid-19 trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp[16], 5 quốc gia có số ca mắc Covid-19 nhiều nhất thế giới là Mỹ, Ấn Độ, Bra-xin, Nga, Cô-lôm-bi-a. Tại Việt Nam, cơ bản các ổ dịch đã được kiểm soát, các địa phương có ca nhiễm Covid-19 cũng đã cơ bản trở lại trạng thái bình thường. Tính đến 6h00 ngày 28/9/2020, Việt Nam có 1.074 trường hợp mắc, 999 trường hợp đã được chữa khỏi (35 trường hợp tử vong), là ngày thứ 26 liên tiếp Việt Nam không ghi nhận ca mắc Covid-19 mới trong cộng đồng. Đa phần các trường hợp tử vong ở nước ta đều là người cao tuổi, trên nền bệnh lý nặng như suy thận mạn giai đoạn cuối, ung thư máu giai đoạn cuối không đáp ứng hoá chất, hội chứng mạch vành, suy hô hấp cấp, thoái hoá đa khớp, tăng huyết áp, suy thượng thận mạn, đái tháo đường tuýp 2, nhiễm trùng huyết, viêm phổi, suy kiệt, suy đa tạng.
Trong 9 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 10.354 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 5.980 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 4.374 vụ va chạm giao thông, làm 4.876 người chết, 3.127 người bị thương và 4.482 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 9 tháng giảm 18,3% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 11%; số vụ va chạm giao thông giảm 26,6%); số người chết giảm 13,8%; số người bị thương giảm 13,9% và số người bị thương nhẹ giảm 25,1%. Bình quân 1 ngày trong 9 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 38 vụ tai nạn giao thông, gồm 22 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 16 vụ va chạm giao thông, làm 18 người chết, 11 người bị thương và 16 người bị thương nhẹ.
Thiệt hại do thiên tai trong 9 tháng làm 96 người chết và mất tích; 292 người bị thương; 142,6 nghìn ha lúa và 67,8 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; 849 con gia súc và 65,9 nghìn con gia cầm bị chết; 1.806 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; gần 101,2 nghìn ngôi nhà bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong 9 tháng ước tính 7,2 nghìn tỷ đồng, trong đó do xâm nhập mặn là 3,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 47% tổng giá trị thiệt hại.
e) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Trong 9 tháng năm nay, cơ quan chức năng đã phát hiện 10.715 vụ vi phạm môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 9.658 vụ với tổng số tiền phạt 143,6 tỷ đồng và từ ngày 15/12/2019 đến ngày 14/9/2020 trên cả nước xảy ra 2.254 vụ cháy, nổ, làm 79 người chết và 131 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính là 416,2 tỷ đồng.
Khái quát lại, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã gây ra một cú sốc lớn làm kinh tế thế giới và thương mại toàn cầu suy thoái sâu và nghiêm trọng, bức tranh kinh tế – xã hội Việt Nam 9 tháng năm 2020 tiếp tục duy trì được ổn định là nhờ sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các cấp, các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước. Sau khi các biện pháp giãn cách xã hội được nới lỏng, cùng với tác động tích cực từ những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người dân của Chính phủ, các lĩnh vực kinh tế – xã hội đang bước vào trạng thái hoạt động trong điều kiện bình thường mới, nhiều ngành sản xuất kinh doanh có sự khởi sắc./.
[1] Tốc độ tăng GDP quý III các năm 2011-2020 lần lượt là: 6,21%; 5,39%; 5,54%; 6,07%; 6,87%; 6,56%; 7,38%; 6,82%; 7,48%; 2,62%.
[2] Tốc độ tăng GDP 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 6,03%; 5,10%; 5,14%; 5,53%; 6,53%; 5,99%; 6,41%; 6,96%; 7,04%; 2,12%.
[3] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 4,03%; 2,28%; 2,11%; 2,01%; 1,78%; 0,02%; 2,08%; 2,85%; 0,91%; 1,65%.
[4] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành thủy sản 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 3,46%; 4,06%; 2,95%; 6,15%; 2,11%; 1,81%; 5,48%; 6,37%; 6,24%; 2,44%.
[5] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 9,54%; 8,50%; 4,80%; 5,58%; 9,86%; 7,40%; 6,95%; 8,99%; 9,61%; 2,69%.
[6] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 13,48%; 8,74%; 6,58%; 7,09%; 10,15%; 11,20%; 12,77%; 12,95%; 11,48%; 4,60%.
[7] Tốc độ tăng/giảm giá trị tăng thêm ngành xây dựng 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: -0,01%; 2,78%; 5,31%; 6,61%; 9,0%; 9,10%; 8,30%; 8,76%; 8,33%; 5,02%.
[8] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ 9 tháng so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 7,09%; 6,47%; 6,43%; 5,94%; 6,10%; 6,67%; 7,21%; 6,75%; 6,92%; 1,37%.
[9] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[10] Số liệu tháng 9/2020 do Tổ liên ngành gồm Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê họp ước tính căn cứ trên số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu tính đến ngày 27/9/2020 của Tổng cục Hải quan kết hợp với thông tin thị trường, tỷ trọng và xu hướng xuất, nhập khẩu các mặt hàng. Tổng cục Thống kê nhận được và cập nhật báo cáo vào chiều ngày 28/9/2020.
[11] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2019 đạt 382 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 194,6 tỷ USD, tăng 8,4%; nhập khẩu đạt 187,4 tỷ USD, tăng 8,3%.
[12] Ước tính tháng Tám xuất siêu 3,5 tỷ USD.
[13] Trong đó, 9 tháng năm 2020 xuất siêu sang EU đạt 15,2 tỷ USD, giảm 7,6% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 24,9 tỷ USD, giảm 7,8%; nhập siêu từ Hàn Quốc 18,3 tỷ USD, giảm 10,7%; nhập siêu từ ASEAN 4,8 tỷ USD, tăng 7,8%
[14] Tốc độ tăng CPI tháng Chín so với tháng trước của các năm giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: tăng 0,54%; tăng 0,59%; tăng 0,59%; tăng 0,32%; tăng 0,12%. Tốc độ tăng CPI tháng Chín so với tháng 12 năm trước của các năm giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: tăng 3,14%; tăng 1,83%; tăng 3,2%; tăng 2,2%; tăng 0,01%.
[15] Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị quý III các năm 2011-2020 lần lượt là: 3,43%; 3,31%, 3,59%; 3,27%; 3,38%; 3,23%; 3,14%; 3,09%; 3,11%; 4,0%.
[16] Tính đến 6h00 ngày 28/9/2020, trên thế giới có 33.290,4 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (gần 1002 nghìn trường hợp tử vong).
© Cổng Thông tin điện tử Thành phố Phú Quốc
Cơ quan chủ quản: Ủy ban Nhân dân Thành phố Phú Quốc
Địa chỉ BBT: Số 04 Đường 30/4 - KP2 - Phường Dương Đông - Thành phố Phú Quốc - tỉnh Kiên Giang
Điện thoại: (0297) 3.848.352 , Fax: (0297) 3.847.507
Email: [email protected]
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2022 ước tính tăng khá cao ở mức 13,67% so với cùng kỳ năm trước do quý III/2021[1] là thời điểm dịch Covid-19 bùng phát mạnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,24%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 12,91%; khu vực dịch vụ tăng 18,86%. Về sử dụng GDP quý III/2022, tiêu dùng cuối cùng tăng 10,08% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 38,21% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 8,7%, đóng góp 21,13%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 9,32%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 2,72%; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 40,66%.
GDP 9 tháng năm 2022 tăng 8,83% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của 9 tháng trong giai đoạn 2011-2022, các hoạt động sản xuất kinh doanh dần lấy lại đà tăng trưởng, chính sách phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội của Chính phủ đã phát huy hiệu quả. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,99%, đóng góp 4,04%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,44%, đóng góp 41,79%; khu vực dịch vụ tăng 10,57%, đóng góp 54,17%.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành chăn nuôi phát triển ổn định, khai thác gỗ được đẩy mạnh; sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng khá đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Trong đó, ngành nông nghiệp 9 tháng năm 2022 tăng 2,43% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,22 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 5,2% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 4,43%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp có xu hướng phục hồi nhanh với mức tăng 9 tháng năm 2022 đạt 9,63% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 3,25 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 10,69%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng của cùng kỳ các năm 2011, 2017 và 2018[2], đóng góp 2,74 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 8,55%, đóng góp 0,59 điểm phần trăm.
Khu vực dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ tăng 9 tháng năm 2022 đạt 10,57%, cao nhất của 9 tháng các năm 2011-2022[3]. Một số ngành dịch vụ thị trường tăng cao, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như sau: Ngành bán buôn, bán lẻ tăng 10,24% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1 điểm phần trăm; ngành vận tải kho bãi tăng 14,2%, đóng góp 0,83 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ[4] với mức tăng 41,7%, đóng góp 0,81 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,05%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 7,65%, đóng góp 0,5 điểm phần trăm. Riêng ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 2,67%, làm giảm 0,04 điểm phần trăm do dịch Covid-19 đã được kiểm soát[5].
Về cơ cấu nền kinh tế 9 tháng năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,27%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,69%; khu vực dịch vụ chiếm 41,31%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,73%.
Về sử dụng GDP 9 tháng năm 2022, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,26% so với cùng kỳ năm 2021, đóng góp 44,46% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 5,59%, đóng góp 18,46%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 8,94%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 4,74%; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 37,08%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
– Lúa đông xuân: Kết quả sản xuất vụ đông xuân năm 2022 giảm so với vụ đông xuân năm 2021. Năng suất lúa đông xuân đạt 67,2 tạ/ha, giảm 1,5 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước; sản lượng đạt 19,98 triệu tấn, giảm 649 nghìn tấn.
– Lúa mùa: Tính đến trung tuần tháng Chín, diện tích gieo cấy lúa mùa cả nước đạt 1.505,3 nghìn ha, bằng 100,2% cùng kỳ năm trước. Trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1.023,8 nghìn ha, bằng 98,3%; các địa phương phía Nam đạt 481,5 nghìn ha, bằng 104,3%.
– Lúa hè thu: Diện tích gieo cấy vụ hè thu năm nay ước đạt 1.915,6 nghìn ha, giảm 38,6 nghìn ha so với vụ hè thu năm trước. Tính đến ngày 15/9/2022, các địa phương đã thu hoạch được 1.830,1 nghìn ha lúa hè thu, chiếm 95,5% diện tích gieo cấy và bằng 100,3% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1.440,7 nghìn ha, chiếm 97,6% và bằng 100,6%. Năng suất lúa hè thu cả nước năm nay đạt 56,4 tạ/ha, giảm 0,6 tạ/ha so với vụ hè thu năm 2021; sản lượng đạt 10,8 triệu tấn, giảm 340 nghìn tấn.
– Lúa thu đông: Đến giữa tháng Chín, vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy được 574 nghìn ha lúa thu đông, bằng 93,7% cùng kỳ năm trước.
– Cây hàng năm: Diện tích gieo trồng các loại cây hoa màu hầu hết đều giảm so với cùng kỳ năm trước do thời tiết không thuận lợi, nhiều vùng bị ngập úng cùng với đó là hiệu quả kinh tế từ các loại cây như ngô, khoai lang, lạc không cao nên nông dân thu hẹp sản xuất.
– Cây lâu năm: Tổng diện tích cây lâu năm 9 tháng năm 2022 ước đạt 3.656,2 nghìn ha, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhóm cây công nghiệp đạt 2.198,3 nghìn ha, tăng 0,8%; nhóm cây ăn quả đạt 1.162,6 nghìn ha, tăng 2,3%.
– Chăn nuôi: Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 9/2022 tăng 8,8% so với cùng thời điểm năm 2021; tổng số bò tăng 3,4%; tổng số gia cầm tăng 3,8%; tổng số trâu giảm 1,1%.
Diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước trong quý III/2022 ước đạt 71,3 nghìn ha, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2022, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 191,2 nghìn ha, tăng 4,1 % so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 70,4 triệu cây, tăng 5,4%; sản lượng gỗ khai thác đạt 13,7 triệu m3, tăng 6,2%; sản lượng củi khai thác đạt 13,9 triệu ste, tăng 0,5%.
Diện tích rừng bị thiệt hại quý III/2022 là 276,5 ha, giảm 77,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chủ yếu là rừng bị chặt, phá với 275,1 ha, tăng 4,3%. diện tích rừng bị cháy là 1,4 ha, giảm 99,9%. Tính chung 9 tháng năm 2022, cả nước có 887,9 ha rừng bị thiệt hại , giảm 62,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 24,5 ha, giảm 98,3%; diện tích rừng bị chặt, phá là 863,4 ha, giảm 1,6%.
Sản lượng thủy sản quý III/2022 ước đạt 2.406 nghìn tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2022, sản lượng thủy sản ước đạt 6.602,8 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 3.611,2 nghìn tấn, tăng 7,2%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 2.991,6 nghìn tấn, giảm 2,4%.
Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng năm 2022 ước tính tăng 9,63% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 7,16%; quý II tăng 9,51%; quý III tăng 12,12%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,69% (quý I tăng 7,85%; quý II tăng 11,07%; quý III tăng 13,02%), đóng góp 2,74 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,71%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,03%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 4,42%, đóng góp 0,15 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2022 tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2022, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,7% so với cùng kỳ năm 2021 (cùng kỳ năm 2021 tăng 2,8%).
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/9/2022 tăng 7,3% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 13,4% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 28,2%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 9 tháng năm 2022 là 76,4% (bình quân 9 tháng năm 2021 là 81,1%).
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[6]
– Trong tháng Chín, cả nước có 11.466 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 3,8% so với tháng trước; tăng 194,1% so với cùng kỳ năm trước. Cả nước còn có 5.118 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 20,7% so với tháng trước và tăng 54,3% so với cùng kỳ năm 2021; có 2.935 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 21,9% và tăng 31%; có 4.187 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 6% và tăng 66,9%; có 1.516 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 22,4% và tăng 150,2%.
– Tính chung 9 tháng năm 2022, cả nước có 163,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 38,6% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân một tháng có 18,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 112,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 24,8% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có 12,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2022 cho thấy: Có 38,6% số doanh nghiệp đánh giá tốt hơn so với quý II/2022; 36,0% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 25,4% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Dự kiến quý IV/2022, có 48,7% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý III/2022; 33,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 17,4% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Trong đó, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước lạc quan nhất với 83,6% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý IV/2022 tốt hơn và giữ ổn định so với quý III/2022; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp Nhà nước lần lượt là 80,9% và 79,1%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín ước đạt 493,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,9% so với tháng trước và tăng 36,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 4.170,2 nghìn tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 giảm 5%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 16,8% (cùng kỳ năm 2021 giảm 6,6%).
Hoạt động vận tải trong tháng Chín tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ cả về vận tải hành khách và hàng hóa. Trong đó, vận chuyển hành khách gấp 3,9 lần và luân chuyển hành khách gấp 5,7 lần so với cùng kỳ năm trước; vận tải hàng hóa tăng 52,6% về vận chuyển và tăng 60,4% về luân chuyển. Quý III/2022, vận tải hành khách gấp 3,9 lần về vận chuyển và gấp 5,3 lần về luân chuyển so với cùng kỳ năm trước; vận tải hàng hoá tăng lần lượt là 65,5% và 63,7%. Tính chung 9 tháng năm 2022, vận chuyển hành khách tăng 40,7% và luân chuyển tăng 59,4% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 24,4% và luân chuyển tăng 31%.
Doanh thu hoạt động viễn thông quý III/2022 ước đạt 79,9 nghìn tỷ đồng, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,8%). Tính chung 9 tháng năm 2022, doanh thu hoạt động viễn thông ước đạt 248,5 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 6,6%).
Khách quốc tế đến Việt Nam tháng Chín đạt 431,9 nghìn lượt người, giảm 11,2% so với tháng trước và gấp 45,4 lần so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam đã mở cửa du lịch, các đường bay quốc tế được khôi phục trở lại. Tính chung 9 tháng năm 2022, khách quốc tế đến nước ta đạt 1.872,9 nghìn lượt người, gấp 16,4 lần so với cùng kỳ năm trước nhưng vẫn giảm 85,4% so với cùng kỳ năm 2019, năm chưa có dịch Covid-19.
6. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán
Tính đến thời điểm 20/9/2022, tổng phương tiện thanh toán tăng 2,49% so với cuối năm 2021 (cùng thời điểm năm 2021 tăng 4,95%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 4,04% (cùng thời điểm năm 2021 tăng 4,28%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 10,54% (cùng thời điểm năm 2021 tăng 7,17%).
Thị trường bảo hiểm tiếp tục đạt mức tăng mức tăng trưởng ổn định. Tính chung 9 tháng năm 2022, tổng doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm ước tăng 17% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ ước tăng 17%, lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ ước tăng 18%.
Trong 9 tháng năm 2022, trên thị trường cổ phiếu, giá trị giao dịch bình quân đạt 22.743 tỷ đồng/phiên, giảm 14,5% so với bình quân năm trước; thị trường trái phiếu giá trị giao dịch bình quân đạt 9.326 tỷ đồng/phiên, giảm 18,2%; thị trường chứng khoán phái sinh khối lượng giao dịch đạt 30,4 triệu chứng quyền/phiên, tăng 43% so với bình quân năm 2021 và giá trị giao dịch đạt 26,28 tỷ đồng/phiên, giảm 63%.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý III/2022 theo giá hiện hành ước đạt 833,8 nghìn tỷ đồng, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 9 tháng năm 2022, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành đạt 2.130,3 nghìn tỷ đồng, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 544,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,6% tổng vốn và tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 1.227,1 nghìn tỷ đồng, bằng 57,6% và tăng 10%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 358,3 nghìn tỷ đồng, bằng 16,8% và tăng 16,3%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/9/2022 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 18,75 tỷ USD, giảm 15,3% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 9 tháng năm 2022 ước tính đạt 15,43 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất của 9 tháng trong 5 năm qua.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 9 tháng năm 2022 có 80 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 347,4 triệu USD, gấp 2,3 lần so với cùng kỳ năm trước; có 15 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh tăng 50,9 triệu USD, giảm 87,9%. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 398,3 triệu USD, giảm 30,4% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 9/2022 ước đạt 94,8 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước 9 tháng năm 2022 đạt 1.327,3 nghìn tỷ đồng, bằng 94% dự toán năm và tăng 22% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 9/2022 ước đạt 132,7 nghìn tỷ đồng; lũy kế 9 tháng năm 2022 ước đạt 1.086,3 nghìn tỷ đồng, bằng 60,9% dự toán năm và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.
9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 9/2022 ước đạt 29,94 tỷ USD, giảm 14,3% so với tháng trước và tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý III/2022, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 96,5 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,5% so với quý II/2022. Tính chung 9 tháng năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 282,52 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước.
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 9 tháng năm 2022, nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm 89%, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 9/2022 ước đạt 28,8 tỷ USD, giảm 7,3% so với tháng trước và tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý III/2022, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 90,7 tỷ USD, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước và giảm 7,1% so với quý II/2022. Tính chung 9 tháng năm 2022, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 276 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước.
Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu 9 tháng năm 2022, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm 93,9%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2022, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 86,3 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 91,6 tỷ USD. Trong 9 tháng năm 2022, xuất siêu sang EU ước đạt 24,3 tỷ USD, tăng 48,2% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 51,5 tỷ USD, tăng 21,3%.
Cán cân thương mại hàng hóa tháng Chín ước tính xuất siêu 1,14 tỷ USD. Tính chung 9 tháng năm 2022, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 6,52 tỷ USD (cùng kỳ năm trước nhập siêu 3,44 tỷ USD).
Trong quý III/2022, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 3,8 tỷ USD, tăng 174,6% so với cùng kỳ năm 2021 và tăng 34,2% so với quý trước; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước đạt 6,9 tỷ USD, tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước và tăng 4,4% so với quý trước.
Tính chung 9 tháng năm 2022, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 8,2 tỷ USD, tăng 118,4% so với cùng kỳ năm 2021; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước đạt 19,4 tỷ USD, tăng 28,5% so với cùng kỳ năm trước.
10. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2022 tăng 0,4% so với tháng trước chủ yếu do giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu tăng tăng theo giá nguyên liệu đầu vào và một số địa phương tăng học phí năm học mới 2022-2023. So với tháng 12/2021, CPI tháng Chín tăng 4,01% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,94%. CPI bình quân quý III/2022 tăng 3,32% so với quý III/2021. Bình quân 9 tháng năm nay, CPI tăng 2,73% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 1,88%.
Chỉ số giá vàng tháng 9/2022 giảm 1,71% so với tháng trước; tăng 1,34% so với tháng 12/2021; tăng 4,06% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 9 tháng năm 2022 tăng 6,22%.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2022 tăng 0,53% so với tháng trước; tăng 2,87% so với tháng 12/2021 và tăng 3,45% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 9 tháng năm 2022 tăng 0,7%.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước 9 tháng năm 2022 là 51,6 triệu người, tăng 1,2 triệu người so với cùng kỳ năm trước; lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 45,9 triệu người, tăng 1,4 triệu người. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc là 50,5 triệu người, tăng 1,5 triệu người so với 9 tháng năm 2021.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý III/2022 ước tính là 2,28%. Tính chung 9 tháng năm 2022, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,35%, trong đó khu vực thành thị là 2,88%; khu vực nông thôn là 2,02%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) 9 tháng năm 2022 ước tính là 7,86%, trong đó khu vực thành thị là 9,65%; khu vực nông thôn là 6,91%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý III/2022 là 1,92%. Tính chung 9 tháng năm nay, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính là 2,29%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,75%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 2,63%.
b) Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
Theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư trong 9 tháng năm 2022, tình hình đời sống của hộ dân cư đã ngày càng cải thiện.
Trong 9 tháng năm nay, có 25,4% hộ gia đình nhận được sự trợ giúp từ các nguồn hỗ trợ khác nhau. Bên cạnh đó, gói hỗ trợ do ảnh hưởng dịch Covid-19 của Chính phủ tiếp tục được thực hiện. Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, tính đến ngày 22/9/2022 gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP đã giải ngân khoảng 3.539 tỷ đồng hỗ trợ cho hơn 5 triệu người lao động tại 120.295 doanh nghiệp.
Trên thế giới, dự báo dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, khó lường, khó dự đoán với sự xuất hiện của nhiều biến chủng mới. Tại Việt Nam, nhiều địa phương đã ghi nhận các biến thể mới BA.4, BA.5, BA2.74, BA2.12.1 với khả năng lây lan nhanh. Kể từ ca mắc Covid-19 đầu tiên tại Việt Nam vào ngày 23/01/2020 đến ngày 27/9/2022, Việt Nam có 11.475,3 nghìn trường hợp mắc, trong đó 10.588,8 nghìn trường hợp đã được chữa khỏi và 43,1 nghìn trường hợp tử vong.
Trong 9 tháng năm 2022, trên địa bàn cả nước xảy ra 8.313 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 5.785 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 2.528 vụ va chạm giao thông, làm 4.714 người chết, 2.963 người bị thương và 2.583 người bị thương nhẹ. Bình quân 1 ngày trong 9 tháng năm 2022, trên địa bàn cả nước xảy ra 30 vụ tai nạn giao thông, gồm 21 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 9 vụ va chạm giao thông, làm 17 người chết, 11 người bị thương và 9 người bị thương nhẹ.
Thiệt hại do thiên tai trong 9 tháng năm nay làm 134 người chết và mất tích; 86 người bị thương; 202,1 nghìn ha lúa và 44,8 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; hơn 253,2 nghìn con gia súc và gia cầm bị chết; gần 19,2 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong 9 tháng năm 2022 ước tính gần 6.617 tỷ đồng, gấp 4,9 lần cùng kỳ năm trước.
e) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Trong 9 tháng năm nay, cơ quan chức năng đã phát hiện 16.652 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 14.515 vụ với tổng số tiền phạt là 195,5 tỷ đồng, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong 9 tháng năm 2022, trên địa bàn cả nước xảy ra 1.285 vụ cháy, nổ, làm 104 người chết và 85 người bị thương, thiệt hại ước tính 536,5 tỷ đồng.
Khái quát lại, trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới biến động khó lường, không thuận lợi, nhưng tình hình kinh tế – xã hội 9 tháng năm 2022 của nước ta đã đạt được kết quả tích cực ở hầu hết các lĩnh vực. Đó là do sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các cấp, các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước./.
[1] Tốc độ tăng GDP quý III/2021 giảm 6,03% so với cùng kỳ năm trước.
[2] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 9 tháng các năm 2011-2022 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 12,06%; 8,1%; 5,91%; 6,21%; 8,78%; 10,49%; 10,76%; 11,51%; 9,91%; 3,2%; 5,02%; 10,69%.
[3] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ 9 tháng các năm 2011-2022 so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: 7,43%; 6,8%; 6,59%; 7,21%; 6,97%; 7,29%; 6,97%; 7,25%; 7,52%; 1,87%; -0,05%; 10,57%.
[4] Giá trị tăng thêm ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước giảm 25,52%.
[5] Giá trị tăng thêm ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước tăng 21,08%.
[6] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 23/9/2022.
[7] Ước tính tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu tháng 9/2022 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 27/9/2022. Tổng cục Thống kê ước tính trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tháng 9/2022 dựa trên số liệu sơ bộ về trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu đến hết ngày 25/9/2022 do Tổng cục Hải quan cung cấp.
Kinh tế – xã hội nước ta 6 tháng đầu năm 2020 diễn ra trong bối cảnh dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19) bùng phát mạnh trên phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt kinh tế – xã hội của các quốc gia trên thế giới. Những nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Cộng đồng chung châu Âu đang đối mặt với tình trạng suy thoái kinh tế sâu, tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ qua; thương mại toàn cầu tiếp tục suy giảm[1], chuỗi cung ứng bị gián đoạn, giá dầu thô giảm mạnh do nhu cầu sử dụng hạn chế; thất nghiệp tăng cao. Theo các tổ chức quốc tế và thể chế tài chính, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào suy thoái trong năm 2020[2]. Cùng với đó, chiến tranh thương mại Mỹ – Trung vẫn tiếp diễn, căng thẳng chính trị gia tăng giữa Mỹ – Iran, bất đồng nội bộ trong tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và trên bán đảo Triều Tiên đã tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ kết quả tăng trưởng tích cực năm 2019, kinh tế vĩ mô ổn định nhưng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường làm tăng trưởng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực chậm lại; tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm tăng cao. Bên cạnh đó, hạn hán, xâm nhập mặn diễn ra sớm ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng, dịch tả lợn châu Phi chưa được khống chế hoàn toàn.
Trước tình hình đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tại các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đặc biệt là Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2020 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2020, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2020 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2020. Trước đại dịch Covid-19, với phương châm vừa phòng chống dịch bệnh, bảo đảm sức khỏe người dân, vừa phòng chống suy giảm kinh tế và giữ vững ổn định xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2020, ngày 4/3/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19. Ngày 09/4/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, đồng thời thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra tình hình thực hiện trong từng tháng, từng quý. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý II và 6 tháng đầu năm 2020 như sau:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II/2020 ước tính tăng 0,36% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất của quý II các năm trong giai đoạn 2011-2020[3], quý II/2020 chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của dịch Covid-19 khi Chính phủ chỉ đạo thực hiện mạnh mẽ các giải pháp nhằm giãn cách xã hội, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 1,38%; khu vực dịch vụ giảm 1,76%. Về sử dụng GDP quý II năm nay, tiêu dùng cuối cùng tăng 0,04% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 2,30%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 8,45%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 9,67%.
GDP 6 tháng đầu năm 2020 tăng 1,81%, là mức tăng thấp nhất của 6 tháng các năm trong giai đoạn 2011-2020[4]. Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội, toàn bộ hệ thống chính trị, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đặt ưu tiên hàng đầu việc phòng chống và dập dịch, hy sinh lợi ích kinh tế để bảo đảm tính mạng và sức khỏe của người dân. Đây chính là nền tảng vững chắc để nền kinh tế nước ta tiếp tục duy trì tăng trưởng, không rơi vào tình trạng tăng trưởng âm. Kết quả trên cho thấy thắng lợi của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong cuộc chiến đẩy lùi dịch bệnh, đồng thời vẫn duy trì các hoạt động sản xuất kinh doanh và từng bước đưa nền kinh tế trở lại trạng thái bình thường như trước khi xảy ra dịch bệnh. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,19%, đóng góp 11,89% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 2,98%, đóng góp 73,14%; khu vực dịch vụ tăng 0,57%, đóng góp 14,97%.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2020 tăng thấp so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, dịch Covid-19 và dịch tả lợn châu Phi. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 0,83%, chỉ cao hơn mức tăng trưởng âm 0,78% của 6 tháng đầu năm 2016 trong giai đoạn 2011-2020[5], đóng góp 0,1 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 2,15% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,01 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,37%, chỉ cao hơn mức tăng 2,34% của 6 tháng đầu năm 2013 và 1,25% của 6 tháng đầu năm 2016 trong giai đoạn 2011-2020[6], đóng góp 0,08 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, riêng ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2020 tăng 2,71% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ các năm 2011-2020[7], đóng góp 0,93 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,96%, thấp hơn mức tăng của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2020[8], đóng góp 1,1 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 5,4%, làm giảm 0,35 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế do sản lượng dầu thô khai thác giảm 13,9% và khí đốt tự nhiên giảm 9,1%. Ngành xây dựng tăng 4,5%, cao hơn mức tăng 0,11% và 2,41% của 6 tháng đầu năm 2011 và 2012 trong giai đoạn 2011-2020[9], đóng góp 0,28 điểm phần trăm.
Trong những tháng đầu năm 2020, dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Khu vực dịch vụ trong 6 tháng đạt mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm 2011-2020[10]. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của 6 tháng như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước, là ngành đóng góp lớn nhất vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế với 0,46 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,78%, đóng góp 0,32 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 3%, làm giảm 0,1 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 20,7%, làm giảm 0,95 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,16%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,44%; khu vực dịch vụ chiếm 42,04%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,36% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2019 là: 13,54%; 34,20%; 42,03%; 10,23%).
Về sử dụng GDP 6 tháng đầu năm 2020, tiêu dùng cuối cùng tăng 0,69% so với cùng kỳ năm 2019; tích lũy tài sản tăng 1,93%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 0,31%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 2,54%.
Sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2020 gặp nhiều khó khăn do hạn hán, xâm nhập mặn xuất hiện sớm; dịch Covid-19 diễn biến phức tạp; dịch tả lợn châu Phi dần được kiểm soát nhưng việc tái đàn còn chậm. Trước những khó khăn đó, ngành Nông nghiệp đã có những giải pháp ứng phó hiệu quả nên kết quả sản xuất đạt khá, năng suất lúa vụ đông xuân 2020 tăng so với cùng kỳ năm trước; chăn nuôi gia cầm phát triển tốt. Sản xuất lâm nghiệp bắt đầu hồi phục từ tháng Năm. Sản xuất thủy sản tiếp tục gặp khó khăn do xuất khẩu giảm mạnh và giá cá, tôm nguyên liệu giảm.
Diện tích gieo cấy lúa đông xuân cả nước năm nay đạt 3.024,1 nghìn ha, bằng 96,8% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1.097,8 nghìn ha, bằng 98,3%; các địa phương phía Nam đạt 1.926,3 nghìn ha, bằng 96%. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa đông xuân của cả nước ước tính đạt 65,8 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 62,7 tạ/ha, giảm 0,2 tạ/ha chủ yếu do ảnh hưởng của giông lốc kèm mưa đá ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, sâu bệnh gây hại ở một số địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ; các địa phương phía Nam đạt 67,6 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha. Một số địa phương có năng suất lúa đông xuân tăng so với cùng kỳ năm trước: Vĩnh Long tăng 6,1 tạ/ha; Kiên Giang tăng 4,4 tạ/ha; Cà Mau tăng 3,9 tạ/ha; Hậu Giang tăng 3,2 tạ/ha… Năng suất lúa tăng khẳng định việc cơ cấu cây trồng được chuyển dịch theo hướng tích cực, giống lúa mới chất lượng cao cho giá trị kinh tế cao dần thay thế giống lúa truyền thống. Sản lượng lúa đông xuân cả nước ước tính đạt 19,9 triệu tấn, giảm 568,4 nghìn tấn so với vụ đông xuân năm 2019 chủ yếu do giảm diện tích gieo trồng. Trong đó, sản lượng lúa đông xuân ở miền Bắc đạt 6,9 triệu tấn, giảm 142,8 nghìn tấn (riêng vùng Đồng bằng sông Hồng đạt 3,3 triệu tấn, giảm 91,9 nghìn tấn). Một số địa phương có sản lượng lúa đông xuân giảm so với cùng kỳ năm trước: Thanh Hóa giảm 26,8 nghìn tấn; Hải Phòng giảm 25,1 nghìn tấn; Hưng Yên giảm 15,6 nghìn tấn; Thái Bình giảm 14,9 nghìn tấn. Sản lượng lúa đông xuân ở miền Nam đạt 13 triệu tấn, giảm 425,6 nghìn tấn so với cùng kỳ năm trước (vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 10,6 triệu tấn, giảm 300,6 nghìn tấn).
Cùng với việc thu hoạch vụ đông xuân, các địa phương trên cả nước đã xuống giống được 1.707,6 nghìn ha lúa hè thu, bằng 94,4% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.350,5 nghìn ha, bằng 96,5%. Mặc dù vụ lúa đông xuân thu hoạch sớm, thời gian chuẩn bị đất cho vụ hè thu nhiều nhưng tiến độ gieo trồng lúa hè thu năm nay chậm hơn cùng kỳ năm 2019 do ảnh hưởng của hạn hán và xâm nhập mặn. Hiện nay, lúa hè thu ở các địa phương phía Bắc đang trong giai đoạn đẻ nhánh đến chắc xanh; ở các địa phương phía Nam đang vào giai đoạn đẻ nhánh, làm đòng đến trỗ chín, cây lúa sinh trưởng và phát triển tương đối tốt. Đến nay đã có 184 nghìn ha lúa hè thu sớm tại Đồng bằng sông Cửu Long cho thu hoạch, bằng 109,8% cùng kỳ năm 2019.
Đến giữa tháng Sáu, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 544 nghìn ha ngô, bằng 95,5% cùng kỳ năm trước; 73,4 nghìn ha khoai lang, bằng 91,9%; 23,6 nghìn ha đậu tương, bằng 89,4%; 132 nghìn ha lạc, bằng 95,7%; 722,8 nghìn ha rau, đậu, bằng 100,1%.
Tổng diện tích cây lâu năm hiện có ước tính đạt 3.553,3 nghìn ha, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó nhóm cây công nghiệp đạt 2.184,6 nghìn ha, giảm 0,1%; nhóm cây ăn quả đạt 1.078,4 nghìn ha, tăng 5,1% chủ yếu ở nhóm cây có múi và nhóm cây có giá trị cao, thị trường tiêu thụ ổn định như xoài, sầu riêng, mít và thanh long; nhóm cây lấy dầu đạt 178,4 nghìn ha, tăng 1,4%; nhóm cây gia vị, dược liệu đạt 50,5 nghìn ha, tăng 2%; nhóm cây lâu năm khác đạt 61,4 nghìn ha, tăng 2,8%. Sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm 6 tháng đầu năm 2020 tăng so với cùng kỳ năm trước: Chè đạt 475 nghìn tấn, tăng 2,4%; cao su đạt 383 nghìn tấn, tăng 8,8%; điều đạt 317 nghìn tấn, tăng 14,9%; hồ tiêu đạt 266 nghìn tấn, tăng 2,7%. Sản lượng một số cây ăn quả đạt khá: Thanh long đạt 631 nghìn tấn, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước; xoài đạt 547 nghìn tấn, tăng 4,4%; cam đạt 315 nghìn tấn, tăng 6,8%; bưởi đạt 220 nghìn tấn, tăng 8,4%; vải đạt 144 nghìn tấn, tăng 20%.
Chăn nuôi trâu, bò trong 6 tháng đầu năm 2020 nhìn chung ổn định. Đàn trâu cả nước tiếp tục xu hướng giảm do hiệu quả kinh tế không cao. Đàn bò phát triển khá do được hỗ trợ vốn, kỹ thuật chăn nuôi và có thị trường tiêu thụ tốt, người chăn nuôi có lãi. Ước tính trong tháng Sáu, đàn trâu của cả nước giảm 2% so với cùng thời điểm năm 2019; đàn bò tăng 3,4%; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 6 tháng đạt 49 nghìn tấn, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2019 (quý II đạt 22,3 nghìn tấn, tăng 0,8%); sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng đạt 187,5 nghìn tấn, tăng 4,1% (quý II đạt 86,1 nghìn tấn, tăng 6,2%); sản lượng sữa bò tươi đạt 522,2 nghìn tấn, tăng 8,1% (quý II đạt 262,1 nghìn tấn, tăng 10%).
Dịch tả lợn châu Phi đang được kiểm soát, đàn lợn dần được khôi phục nhưng việc tái đàn còn chậm, giá lợn giống ở mức cao khiến các hộ có nguồn vốn hạn hẹp chưa thể khôi phục sản xuất, các hộ có đủ điều kiện lại thận trọng tái đàn do tâm lý lo ngại dịch quay trở lại. Ước tính tổng số lợn của cả nước tháng Sáu năm 2020 giảm 7,5% so với cùng thời điểm năm 2019[11]; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6 tháng ước tính đạt 1.636,9 nghìn tấn, giảm 8,8% so với cùng kỳ năm trước (quý II đạt 816,2 nghìn tấn, tăng 3,3%).
Tổng đàn và sản lượng gia cầm tiếp tục tăng do khu vực hộ mở rộng quy mô chăn nuôi và khu vực doanh nghiệp phát triển tốt. Tuy nhiên, người chăn nuôi cần theo dõi sát diễn biến thị trường, các cơ quan chức năng cung cấp thông tin kịp thời, kiểm soát tình hình chăn nuôi tại địa phương, không nên tăng đàn ồ ạt dẫn tới tình trạng dư thừa nguồn cung, giá bán giảm sâu gây thua lỗ. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tháng 6/2020 tăng 7,4% so với cùng thời điểm năm trước; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 6 tháng đạt 702,1 nghìn tấn, tăng 12,3% (quý II đạt 328,6 nghìn tấn, tăng 9,8%); sản lượng trứng gia cầm đạt 7,2 tỷ quả, tăng 11% (quý II ước đạt 3,3 tỷ quả, tăng 11,3%).
Tính đến ngày 25/6/2020, cả nước không còn dịch cúm gia cầm và dịch tai xanh; dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày còn ở Kon Tum và dịch tả lợn châu Phi còn ở 238 xã thuộc 60 huyện của 19 địa phương chưa qua 30 ngày (trong tháng Sáu tái phát tại 122 xã của 12 địa phương).
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, sản xuất lâm nghiệp bị chững lại trong tháng Ba, tháng Tư nhưng bắt đầu hồi phục từ tháng Năm. Trong quý II/2020, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước ước tính đạt 73,7 nghìn ha, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước do nhiều nhà máy chế biến gỗ bị hủy đơn hàng xuất khẩu nên hạn chế hoặc dừng thu mua gỗ nguyên liệu; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 22,8 triệu cây, giảm 3,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4.665 nghìn m3, tăng 0,7%; sản lượng củi khai thác đạt 5,2 triệu ste, giảm 1,9%. Tính chung 6 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 106,3 nghìn ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 44,5 triệu cây, giảm 2,2%; sản lượng gỗ khai thác đạt 7.526 nghìn m3, tăng 2%; sản lượng củi khai thác đạt 9,85 triệu ste, giảm 0,9%.
Công tác phòng cháy, chữa cháy và bảo vệ rừng được các cấp, các ngành quan tâm nhưng do nắng nóng kéo dài nên tình trạng cháy rừng vẫn diễn ra ở một số địa phương. Tính chung 6 tháng đầu năm, cả nước có 1.304 ha rừng bị thiệt hại, tăng 43,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm diện tích rừng bị cháy là 975,6 ha, tăng 71,9%; diện tích rừng bị chặt, phá là 328,4 ha, giảm 3,2%.
Sản lượng thủy sản quý II/2020 ước tính đạt 2.360,9 nghìn tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 1.768,2 nghìn tấn, tăng 0,8%; tôm đạt 280 nghìn tấn, tăng 3,8%; thủy sản khác đạt 312,7 nghìn tấn, tăng 2,2%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng quý II ước tính đạt 1.315 nghìn tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 942,3 nghìn tấn, giảm 0,1%; tôm đạt 238,4 nghìn tấn, tăng 5%. Sản lượng thủy sản khai thác quý II đạt 1.045,9 nghìn tấn, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 825,9 nghìn tấn, tăng 1,9%; tôm đạt 41,6 nghìn tấn, giảm 2,8%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 3.864 nghìn tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 2.890,5 nghìn tấn, tăng 1,1%; tôm đạt 422,8 nghìn tấn, tăng 4%; thủy sản khác đạt 550,7 nghìn tấn, tăng 2,5%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng 6 tháng đạt 1.977,1 nghìn tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 1.415,8 nghìn tấn, tăng 0,2%; tôm đạt 347,3 nghìn tấn, tăng 5,5%; thủy sản khác đạt 214 nghìn tấn, tăng 7,4%. Sản xuất cá tra 6 tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn. Giá cá tra nguyên liệu từ đầu năm đến trung tuần tháng Sáu dao động ở mức 17.500-18.000 đồng/kg, người nuôi đang lỗ từ 3.000-5.000 đồng/kg. Kim ngạch xuất khẩu cá tra trong 6 tháng đầu năm nay giảm tới 24,5% so với cùng kỳ năm trước do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 tại các thị trường tiêu thụ cá tra lớn của Việt Nam như Trung Quốc, Mỹ, EU. Sản lượng cá tra 6 tháng ước tính đạt 644,7 nghìn tấn, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước. Nuôi tôm nước lợ gặp nhiều khó khăn do hạn hán, xâm nhập mặn, nhiệt độ biến động làm giảm sức đề kháng của tôm. Trong 5 tháng đầu năm nay có 29,8 nghìn ha diện tích nuôi tôm nước lợ bị thiệt hại, gấp 3 lần cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, sản lượng tôm sú ước tính đạt 118,7 nghìn tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2019; sản lượng tôm thẻ chân trắng ước tính đạt 200,5 nghìn tấn, tăng 6,6%.
Sản lượng thủy sản khai thác 6 tháng đầu năm ước tính đạt 1.886,9 nghìn tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 1.474,7 nghìn tấn, tăng 2%; tôm đạt 75,5 nghìn tấn, giảm 2,3%; thủy sản khác đạt 336,7 nghìn tấn, giảm 0,4%. Thời tiết những tháng đầu năm tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác biển. Khai thác thủy sản biển đang giảm dần khai thác ven bờ, ngư dân tiếp tục lắp đặt thiết bị giám sát hành trình các tàu cá, hướng tới khai thác bền vững và góp phần tháo gỡ thẻ vàng của Ủy ban châu Âu (EC). Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên nhu cầu tiêu thụ hải sản nội địa giảm và hoạt động xuất khẩu cũng khó khăn hơn. Sản lượng thủy sản khai thác biển 6 tháng đạt 1.808 nghìn tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 1.421,6 nghìn tấn, tăng 2,1%; tôm đạt 70,5 nghìn tấn, giảm 0,8%.
Sản xuất công nghiệp trong quý II/2020 chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch Covid-19 nên tốc độ tăng giá trị tăng thêm chỉ đạt 0,74% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 2,71%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,96% và là mức tăng thấp nhất của 6 tháng các năm 2011-2020[12]. Tuy nhiên do dịch bệnh sớm được kiểm soát, các lĩnh vực của nền kinh tế đang bước vào trạng thái hoạt động bình thường trở lại, sản xuất công nghiệp có sự khởi sắc và dần lấy lại đà tăng trưởng cao từ tháng 5/2020[13].
Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2020 ước tính tăng 2,71% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 5,1%; quý II tăng 0,74%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,96% (quý I tăng 7,12%; quý II tăng 3,20%), đóng góp 1,1 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,04%, đóng góp 0,15 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,76%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 5,4% (do sản lượng khai thác dầu thô giảm mạnh 13,9% và khí đốt tự nhiên giảm 9,1%) làm giảm 0,35 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Xét theo công dụng sản phẩm công nghiệp, chỉ số sản xuất sản phẩm trung gian (phục vụ cho quá trình sản xuất tiếp theo) 6 tháng đầu năm tăng 3,02% so với cùng kỳ năm trước; sản phẩm phục vụ cho sử dụng cuối cùng giảm 0,71% (sản phẩm là tư liệu sản xuất giảm 0,79% và sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng của dân cư tăng 3,27%).
Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, bùng phát mạnh tại nhiều quốc gia đã ảnh hưởng đến nguồn nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất công nghiệp, đặc biệt là ngành chế biến, chế tạo. Bên cạnh đó, Nghị định số 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có hiệu lực ngày 1/1/2020 đã thay đổi thói quen uống rượu, bia của người dân, từ đó ảnh hưởng đến ngành sản xuất đồ uống. Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 6 tháng giảm sâu hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất xe có động cơ giảm 16,4%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 11,3%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị giảm 9,5%; sản xuất đồ uống giảm 8,8%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 8,4%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 5,3%; sản xuất trang phục giảm 4,7%; sản xuất thiết bị điện giảm 3,5%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 2,7%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 2,3%; sản xuất kim loại giảm 1,4%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 0,3%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 2,1%; dệt tăng 2,8%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước và đóng góp lớn vào mức tăng chung của toàn ngành: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 27,9%; sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế tăng 15%; khai thác quặng kim loại tăng 13,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 9,1%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 7,8%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 7,2%; khai thác than cứng và than non tăng 4,9%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực 6 tháng đầu năm 2020 tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước: Ô tô giảm 26,6%; đường kính giảm 23,7%; bia giảm 17,4%; dầu thô khai thác giảm 13,9%; vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 13%; sắt, thép thô giảm 10,2%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 9,1%; điện thoại di động giảm 8,5%; khí hóa lỏng LPG giảm 8,1%; quần áo mặc thường giảm 6,9%; xe máy giảm 6,4%; giày, dép da giảm 4,6%; thức ăn cho gia súc giảm 4%; thép cán giảm 3,9%; sơn hóa học tăng 1,9%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 2,2%; xi măng tăng 4%, than tăng 4,9%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm tăng cao: Linh kiện điện thoại tăng 27,5%; xăng, dầu các loại tăng 20,9%; thép thanh, thép góc tăng 12,8%; bột ngọt tăng 12,3%; phân u rê tăng 10%; thuốc lá điếu tăng 7,2%; sữa bột tăng 5,9%; ti vi tăng 5,7%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6/2020 tăng 8,1% so với tháng trước và tăng 3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,6%), trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 42,1%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 14,7%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 12,1%; dệt tăng 7,3%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 7%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 6,8%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm: In, sao chép bản ghi các loại tăng 2,5%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 1,8%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 0,8%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 0,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 0,6%; sản xuất kim loại giảm 1,4%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 2,1%; sản xuất sản phẩm từ cao su và platic giảm 2,5%; sản xuất trang phục giảm 7,2%; sản xuất thiết bị điện giảm 7,4%; sản xuất đồ uống giảm 10,7%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 7%; sản xuất xe có động cơ giảm 24,4%.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/6/2020 tăng 26,7% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2019 tăng 16,1%), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Sản xuất thiết bị điện tăng 5%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy giảm 3,5%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 10,3%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 13,6%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 77%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng thời điểm năm trước: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 156,2%; sản xuất xe có động cơ tăng 129,6%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 61,9%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 39,5%; sản xuất trang phục tăng 39,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 38,9%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 38,4%; sản xuất kim loại tăng 35,7%; sản xuất thuốc lá tăng 33,7%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 29,4%; dệt tăng 28,1%.
Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 6 tháng đầu năm 2020 khá cao với 78,9% (cùng kỳ năm trước là 74,9%), trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Dệt 118,7%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa 104,7%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 103,4%; sản xuất xe có động cơ 97,3%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác 96,5%; sản xuất chế biến thực phẩm 96%.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/6/2020 tăng 1,1% so cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,3% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2019 tăng 2,3%), trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 2,2%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 2,7%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 2,1%. Tại thời điểm trên, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 2,2% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo giảm 2,3%; sản xuất và phân phối điện tăng 0,2%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải giảm 0,9%.
Sau hai tháng nới lỏng và gỡ bỏ các biện pháp giãn cách xã hội, các hoạt động kinh tế – xã hội đang dần được khôi phục. Doanh nghiệp nhanh chóng thích ứng, bám sát chính sách hỗ trợ của Chính phủ, từng bước đưa sản xuất kinh doanh vào hoạt động trở lại. Doanh nghiệp thành lập mới trong tháng Sáu tiếp tục có sự khởi sắc với 13,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 27,9% so với tháng trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, cả nước có hơn 62 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 7,3% so với cùng kỳ năm 2019; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 16,4%; doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể giảm 10,2% và số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể giảm 5%. Bên cạnh đó, kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo cũng cho thấy các doanh nghiệp kỳ vọng tình hình sản xuất kinh doanh của quý III khả quan hơn quý II.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[14]
Trong tháng 6/2020, cả nước có 13.725 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 139,1 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký là 100 nghìn lao động, tăng 27,9% về số doanh nghiệp, tăng 23,4% về vốn đăng ký và tăng 9,4% về số lao động so với tháng trước[15]. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 10,1 tỷ đồng, giảm 3,5% so với tháng trước và giảm 31% so với cùng kỳ năm 2019. Trong tháng, cả nước còn có 4.998 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 1,1% so với tháng trước và tăng 133,9% so với cùng kỳ năm 2019; có 3.217 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 3,7% và tăng 36,8%; có 3.843 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 24,7% và tăng 31,1%; có 1.368 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 42,2% và giảm 6%; có 5.146 doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 48,2% và tăng 96%.
Tính chung 6 tháng đầu năm, cả nước có hơn 62 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 697,1 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 507,2 nghìn lao động, giảm 7,3% về số doanh nghiệp, giảm 19% về vốn đăng ký và giảm 21,8% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 6 tháng đạt 11,2 tỷ đồng, giảm 12,5% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 984,4 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 18 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm là 1.681,5 nghìn tỷ đồng, giảm 22,5% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 25,2 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 16,4% so với 6 tháng đầu năm 2019, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 6 tháng lên 87,2 nghìn doanh nghiệp, giảm 1,5% so với cùng kỳ năm trước, trung bình mỗi tháng có 14,5 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Theo khu vực kinh tế, 6 tháng đầu năm có 1.095 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước; có 17,9 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, giảm 1,8%; có 43,1 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, giảm 9,9%. Trong tất cả các ngành, lĩnh vực hoạt động, bên cạnh ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản còn có ngành sản xuất phân phối điện, nước, gas có số doanh nghiệp thành lập mới đạt 1.500 doanh nghiệp, tăng 134,7% so với cùng kỳ năm trước và ngành khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác 5.555 doanh nghiệp, tương đương cùng kỳ năm 2019. Các ngành còn lại đều có số doanh nghiệp thành lập mới giảm: bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 20,9 nghìn doanh nghiệp, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm 2019; xây dựng 8.164 doanh nghiệp, giảm 6,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo 7.908 doanh nghiệp, giảm 7,4%; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác 3.241 doanh nghiệp, giảm 17,3%; kinh doanh bất động sản 2.929 doanh nghiệp, giảm 27%; vận tải, kho bãi 2.641 doanh nghiệp, giảm 6,1%; dịch vụ lưu trú và ăn uống 2.469 doanh nghiệp, giảm 21,2%; thông tin truyền thông 1.813 doanh nghiệp, giảm 4,4%; giáo dục và đào tạo 1.556 doanh nghiệp, giảm 20,9%; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 611 doanh nghiệp, giảm 14,9%; nghệ thuật, vui chơi, giải trí 421 doanh nghiệp, giảm 37,3%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 403 doanh nghiệp, giảm 10,2%; khai khoáng 311 doanh nghiệp, giảm 4,9%.
Trong 6 tháng, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 29,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 38,2% so với cùng kỳ năm trước; 19,6 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 10,2%; 7,4 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 5%, trong đó có 6,6 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, giảm 6,4%; 108 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, tăng 0,9%. Doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có gần 2,7 nghìn doanh nghiệp; công nghiệp chế biến, chế tạo có 877 doanh nghiệp; xây dựng có 616 doanh nghiệp; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác có 480 doanh nghiệp; kinh doanh bất động sản có 444 doanh nghiệp; dịch vụ lưu trú và ăn uống có 432 doanh nghiệp; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng, các dịch vụ hỗ trợ khác có 422 doanh nghiệp; vận tải, kho bãi có 313 doanh nghiệp; giáo dục, đào tạo có 277 doanh nghiệp; thông tin truyền thông có 269 doanh nghiệp. Trong 6 tháng, trên cả nước còn có 22,4 nghìn doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 33,9% so với cùng kỳ năm trước.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II/2020 cho thấy: Có 27,3% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý II/2020 tốt hơn quý I/2020; 40,8% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 31,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định[16]. Dự kiến quý III/2020 so với quý II/2020, có 49,1% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 19,4% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 31,5% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định. Trong đó, khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước lạc quan nhất với 82,6% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý III/2020 tốt hơn và giữ ổn định so với quý II/2020; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lần lượt là 79,7% và 75,9%.
Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quý II/2020, có 53,6% số doanh nghiệp cho rằng khả năng cạnh tranh cao của hàng hóa trong nước là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 50,4% số doanh nghiệp cho rằng do nhu cầu thị trường trong nước thấp; 33,5% số doanh nghiệp cho rằng gặp khó khăn về tài chính; 28,2% số doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 27,4% số doanh nghiệp cho rằng thiếu nguyên, nhiên, vật liệu; 23,7% số doanh nghiệp cho rằng không tuyển được lao động theo yêu cầu; 19,8% số doanh nghiệp cho rằng thiết bị công nghệ lạc hậu; chỉ có 6,5% doanh nghiệp cho rằng không có khả năng tiếp cận nguồn vốn vay; 2,1% doanh nghiệp cho rằng thiếu năng lượng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Về khối lượng sản xuất, có 29,7% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý II/2020 tăng so với quý I/2020; 39,6% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm và 30,7% số doanh nghiệp cho rằng ổn định[17]. Xu hướng quý III/2020 so với quý II/2020, có 48,8% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 18,1% số doanh nghiệp dự báo giảm và 33,1% số doanh nghiệp dự báo ổn định.
Về đơn đặt hàng, có 24,7% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng quý II/2020 cao hơn quý I/2020; 39% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm và 36,3% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định[18]. Xu hướng quý III/2020 so với quý II/2020, có 45,1% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng tăng lên; 18,3% số doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm và 36,6% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng ổn định.
Về đơn đặt hàng xuất khẩu, quý II/2020 so với quý I/2020, có 18,6% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu mới cao hơn; 41,3% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới giảm và 40,1% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới ổn định. Xu hướng quý III/2020 so với quý II/2020, có 34,2% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu mới; 21,9% số doanh nghiệp dự kiến giảm và 43,9% số doanh nghiệp dự kiến ổn định.
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Theo đà của tháng Năm, hoạt động thương mại dịch vụ trong nước tháng Sáu tiếp tục tăng trở lại với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 6,2% so với tháng trước và tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên tính chung 6 tháng đầu năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 0,8%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Sáu ước tính đạt 431 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2% so với tháng trước và tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý II/2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 1.154,9 nghìn tỷ đồng, giảm 5,8% so với quý trước và giảm 4,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 928,5 nghìn tỷ đồng, giảm 4% và tăng 1,2%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 108,5 nghìn tỷ đồng, giảm 14% và giảm 26,1%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,5 nghìn tỷ đồng, giảm 68,2% và giảm 77,8%; doanh thu dịch vụ khác đạt 115,4 nghìn tỷ đồng, giảm 7,5% và giảm 14,4%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 2.380,8 nghìn tỷ đồng, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 5,3% (cùng kỳ năm 2019 tăng 8,5%).
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng đạt 1.895,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 79,6% tổng mức và tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước do nguồn cung hàng hóa dồi dào, bên cạnh đó hình thức mua sắm trực tuyến ngày càng phổ biến, đặc biệt là trong thời gian giãn cách xã hội nên vẫn đáp ứng được nhu cầu của người dân. Trong đó, lương thực, thực phẩm tăng 7%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 5%; may mặc giảm 1,2%; phương tiện đi lại giảm 3,5%; vật phẩm văn hoá, giáo dục giảm 6%. Một số địa phương có mức doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Hải Phòng tăng 10,4%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 10,1%; Hà Nội tăng 9,9%; Đồng Nai tăng 8,4%; Bình Định tăng 4,3%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 3%; Thanh Hóa tăng 0,9%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 6 tháng đầu năm nay ước tính đạt 234,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,9% tổng mức và giảm 18,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,2%), trong đó quý II/2020 giảm mạnh 26,1% do ảnh hưởng của tháng thực hiện giãn cách xã hội. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 6 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương: Khánh Hòa giảm 60,3%; Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 49,4%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 47,3%; Cần Thơ giảm 29,5%; Đà Nẵng giảm 27,1%; Hà Nội giảm 22,8%; Quảng Bình giảm 20,4%; Quảng Ninh giảm 17,4%; Hải Phòng giảm 13,8%.
Doanh thu du lịch lữ hành 6 tháng ước tính đạt 10,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,4% tổng mức và giảm 53,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 12,4%) do việc tạm dừng tiếp nhận khách du lịch quốc tế để khống chế dịch Covid-19, đồng thời trong tháng Sáu học sinh và sinh viên chưa nghỉ hè nên du lịch nội địa còn kém sôi động. Một số địa phương có doanh thu du lịch lữ hành 6 tháng giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước: Khánh Hòa giảm 73,5%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 71,2%; Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 66,2%; Quảng Ninh giảm 60,8%; Cần Thơ giảm 55,8%; Quảng Bình giảm 52,3%; Thanh Hóa giảm 47,1%; Hà Nội giảm 44,2%; Đà Nẵng giảm 44%; Hải Phòng giảm 28,9%.
Doanh thu dịch vụ khác 6 tháng ước tính đạt 240,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% tổng mức và giảm 7,4% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó doanh thu của Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 17,4%; Thanh Hóa giảm 14,7%; Đà Nẵng giảm 13,8%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 11,5%; Hà Nội giảm 8,7%; Cần Thơ giảm 8,4%; Hải Phòng giảm 7,4%.
Hoạt động vận tải trong nước tháng 6/2020 tiếp tục xu hướng khôi phục trở lại với mức tăng 13,4% lượng hành khách vận chuyển và tăng 7,3% lượng hàng hóa vận chuyển so với tháng trước. Tuy nhiên, vận tải ngoài nước của các hãng hàng không vẫn gặp nhiều khó khăn do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 ở các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tính chung 6 tháng đầu năm, vận chuyển hành khách giảm 27,3% và vận chuyển hàng hóa giảm 8,1% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hành khách tháng Sáu ước tính đạt 297,4 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 13,4% so với tháng trước và luân chuyển 12,7 tỷ lượt khách.km, tăng 9,3%; quý II năm nay ước tính đạt 681,1 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 44,4% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 29,1 tỷ lượt khách.km, giảm 51,9%. Tính chung 6 tháng, vận tải hành khách đạt 1.812,6 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 27,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,7%) và luân chuyển 82,4 tỷ lượt khách.km, giảm 32,7% (cùng kỳ năm trước tăng 9,5%), trong đó vận tải trong nước đạt 1.809,9 triệu lượt khách, giảm 27,2% và 73 tỷ lượt khách.km, giảm 24,6%; vận tải ngoài nước đạt 2,7 triệu lượt khách, giảm 68,6% và 9,4 tỷ lượt khách.km, giảm 63,2%. Xét theo ngành vận tải, tất cả các ngành đường đều giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-19 từ những tháng trước, trong đó vận tải hành khách đường bộ 6 tháng đạt 1.701,9 triệu lượt khách, giảm 27,8% so với cùng kỳ năm trước và 61,2 tỷ lượt khách.km, giảm 24,4%; đường thủy nội địa đạt 91,3 triệu lượt khách, giảm 10,3% và gần 2 tỷ lượt khách.km, giảm 12,7%; hàng không đạt 14,6 triệu lượt khách, giảm 46,1% và 18,2 tỷ lượt khách.km, giảm 51,2%; đường biển đạt 2,8 triệu lượt khách, giảm 27,4% và 176,9 triệu lượt khách.km, giảm 22,6%; đường sắt đạt 2 triệu lượt khách, giảm 53,7% và 897,1 triệu lượt khách.km, giảm 48,3%.
Vận tải hàng hóa tháng Sáu ước tính đạt 139,2 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 7,3% so với tháng trước và luân chuyển 28,5 tỷ tấn.km, tăng 5,7%; quý II năm nay ước tính đạt 379,1 triệu tấn hàng hóa, giảm 15,4% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 77,3 tỷ tấn.km, giảm 12,1%. Tính chung 6 tháng, vận tải hàng hóa đạt 807,9 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 8,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 8,5%) và luân chuyển 159,8 tỷ tấn.km, giảm 7,1% (cùng kỳ năm trước tăng 7,1%), trong đó vận tải trong nước đạt 790,1 triệu tấn, giảm 8,2% và 82,3 tỷ tấn.km, giảm 12%; vận tải ngoài nước đạt 17,8 triệu tấn, giảm 5,3% và 77,5 tỷ tấn.km, giảm 1,1%. Xét theo ngành vận tải, vận tải hàng hóa đường bộ 6 tháng đạt 622,8 triệu tấn, giảm 8,8% so với cùng kỳ năm trước và 43,8 tỷ tấn.km, giảm 10,5%; đường thủy nội địa đạt 143,9 triệu tấn, giảm 5,9% và 31,4 tỷ tấn.km, giảm 5%; đường biển đạt 38,6 triệu tấn, giảm 4,5% và 81,1 tỷ tấn.km, giảm 3,9%; đường sắt đạt 2,5 triệu tấn, giảm 3% và 1,8 tỷ tấn.km, giảm 2,9%; đường hàng không đạt 132,3 nghìn tấn, giảm 36,3% và 1,7 tỷ tấn.km, giảm 53,5%.
Doanh thu hoạt động viễn thông quý II/2020 ước tính đạt 97,1 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 4,2%). Tính chung 6 tháng đầu năm, doanh thu đạt 192,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 3%), thấp hơn mức tăng 7,2% của cùng kỳ năm 2019 do ảnh hưởng của dịch Covid-19, lượng khách quốc tế đến Việt Nam giảm mạnh nên doanh thu roaming (chuyển vùng quốc tế) cũng giảm, đồng thời nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị và cá nhân cũng giảm bớt trong giai đoạn thực hiện giãn cách xã hội. Tổng số thuê bao điện thoại tại thời điểm cuối tháng 6/2020 ước tính đạt 130,4 triệu thuê bao, giảm 5,3% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó thuê bao di động đạt 126,9 triệu thuê bao, giảm 5,1% chủ yếu do các nhà mạng tiếp tục xử lý sim rác theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông. Số thuê bao truy nhập internet băng rộng cố định tại thời điểm cuối tháng Sáu ước tính đạt 15,7 triệu thuê bao, tăng 13,7% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó thuê bao truy nhập qua hệ thống cáp quang (FTTH) và qua hệ thống cáp truyền hình (CATV) tăng nhanh, thuê bao truy nhập qua hình thức xDSL tiếp tục giảm.
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Sáu chỉ đạt 8,8 nghìn lượt người, mức thấp nhất trong nhiều năm qua, giảm 61,3% so với tháng trước và giảm 99,3% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế nên lượng khách đến trong tháng chủ yếu là chuyên gia, lao động kỹ thuật nước ngoài làm việc tại các dự án ở Việt Nam. Tính chung 6 tháng đầu năm, khách quốc tế đến nước ta đạt 3,7 triệu lượt người, giảm 55,8% so với cùng kỳ năm trước.
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Sáu ước tính đạt 8,8 nghìn lượt người, giảm 61,3% so với tháng trước và giảm 99,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 3.744,5 nghìn lượt người, giảm 55,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 3.040,5 nghìn lượt người, chiếm 81,2% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, giảm 54,3%; bằng đường bộ đạt 559,6 nghìn lượt người, chiếm 14,9% và giảm 66,8%; bằng đường biển đạt 144,3 nghìn lượt người, chiếm 3,9% và tăng 3,7%.
Trong 6 tháng đầu năm, khách đến từ châu Á đạt 2.729,6 nghìn lượt người, chiếm 72,9% tổng số khách quốc tế đến nước ta, giảm 58,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách đến từ hầu hết các thị trường chính đều giảm mạnh: Trung Quốc đạt 919,5 nghìn lượt người, giảm 63% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc 823 nghìn lượt người, giảm 60,4%; Nhật Bản 201,4 nghìn lượt người, giảm 55,8%; Đài Loan 192,8 nghìn lượt người, giảm 55,2%; Ma-lai-xi-a 116,4 nghìn lượt người, giảm 61%; riêng khách đến từ Cam-pu-chia đạt 120,5 nghìn lượt người, tăng 105,9%.
Khách đến từ châu Âu trong 6 tháng ước tính đạt 666,1 nghìn lượt người, giảm 42% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Liên bang Nga 245,7 nghìn lượt người, giảm 31,5%; Vương quốc Anh 81,6 nghìn lượt người, giảm 50,6%; Pháp 74,6 nghìn lượt người, giảm 51,9%; Đức 61,5 nghìn lượt người, giảm 48,1%. Khách đến từ châu Mỹ ước tính đạt 234,4 nghìn lượt người, giảm 54,8% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là khách đến từ Hoa Kỳ đạt 172,8 nghìn lượt người, giảm 56%. Khách đến từ châu Úc đạt 102,3 nghìn lượt người, giảm 54,4%, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 92,3 nghìn lượt người, giảm 53,9%. Khách đến từ châu Phi đạt 12,1 nghìn lượt người, giảm 46,6% so với cùng kỳ năm 2019.
II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng trong 6 tháng đầu năm 2020 chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, tăng trưởng tín dụng tính đến thời điểm 19/6/2020 đạt mức thấp nhất so với cùng thời điểm của các năm trong giai đoạn 2016-2020. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm gặp khó khăn do thu nhập của người dân trong giai đoạn phòng, chống dịch giảm gây ảnh hưởng đến việc đóng phí các hợp đồng bảo hiểm đang còn hiệu lực và hạn chế tham gia các gói bảo hiểm mới. Thị trường chứng khoán giảm mạnh với tổng mức huy động vốn 6 tháng đầu năm nay cho nền kinh tế giảm 37% so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên thị trường đang có dấu hiệu tích cực từ sự phục hồi của kinh tế vĩ mô trong nước khi dịch Covid-19 được kiểm soát hiệu quả.
Tính đến thời điểm 19/6/2020, tổng phương tiện thanh toán tăng 4,59% so với cuối năm 2019 (cùng thời điểm năm 2019 tăng 6,05%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 4,35% (cùng thời điểm năm 2019 tăng 6,09%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 2,45% (cùng thời điểm năm 2019 tăng 6,22%) và đây là mức tăng trưởng tín dụng thấp nhất của thời điểm 19/6 các năm 2016-2020[19].
Từ đầu năm 2020 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều chỉnh giảm 2 lần các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm 1%-1,5%/năm để hỗ trợ thanh khoản và tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp; trong đó giảm 0,6%-0,75%/năm mức lãi suất trần tiền gửi các kỳ hạn dưới 6 tháng và giảm 1%/năm mức lãi suất trần cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên. Hiện nay, lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam phổ biến ở mức 0,1%-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4%-4,25%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4,9%-6,6%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 6,5%-7,4%/năm. Mặt bằng lãi suất cho vay đồng Việt Nam phổ biến ở mức 6%-9%/năm đối với cho vay ngắn hạn; 9%-11%/năm đối với cho vay trung và dài hạn.
Doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường 6 tháng đầu năm 2020 tăng 11% so với cùng kỳ năm trước (quý II/2020 ước tính tăng 6%), trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 13%; lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 8%. Dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đặc biệt là lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ với đặc thù cần có sự gặp mặt trực tiếp để tư vấn cho khách hàng. Do lĩnh vực bảo hiểm không thuộc nhóm hàng hóa thiết yếu nên các điểm kinh doanh, giao dịch bảo hiểm với khách hàng phải đóng cửa và tạm dừng hoạt động trong thời gian giãn cách xã hội. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp Bảo hiểm nhân thọ đã tăng cường hoạt động giao dịch, tư vấn bằng hình thức trực tuyến, chủ động gia hạn thời gian đóng phí bảo hiểm từ 60 ngày đến 90 ngày nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng.
Trong tháng Sáu, thị trường Chứng khoán Việt Nam đã có tín hiệu phục hồi nhờ việc kiểm soát tốt dịch Covid-19 và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dần trở lại bình thường. Tuy nhiên, tính chung 6 tháng đầu năm, tổng mức huy động vốn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán ước tính đạt 94,6 nghìn tỷ đồng, vẫn giảm 37% so với cùng kỳ năm trước.
Trên thị trường cổ phiếu, tính đến 11h ngày 26/6/2020, chỉ số VNIndex đạt 857,38 điểm, giảm 0,8% so với cuối tháng trước và giảm 10,8% so với cuối năm 2019; mức vốn hóa thị trường tính đến ngày 18/6/2020 đạt 4.030 nghìn tỷ đồng, giảm 8,1% so với cuối năm 2019. Giá trị giao dịch bình quân trong tháng Sáu đạt 8.524 tỷ đồng/phiên, tăng 29% so với tháng trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường đạt 5.633 tỷ đồng/phiên, tăng 20,9% so với bình quân năm 2019. Hiện nay, thị trường có 748 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết; 894 cổ phiếu đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM với tổng giá trị niêm yết và đăng ký giao dịch đạt gần 1.422,8 nghìn tỷ đồng, tăng 1% so với cuối năm 2019.
Trên thị trường trái phiếu, hiện có 492 mã trái phiếu niêm yết với giá trị niêm yết đạt 1.172 nghìn tỷ đồng, giảm 1,5% so với cuối năm 2019. Giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trong tháng Sáu đạt 7.120 tỷ đồng/phiên, tăng 23,7% so với tháng trước. Tính chung 6 tháng, giá trị giao dịch bình quân đạt 9.862 tỷ đồng/phiên, tăng 7,1% so với bình quân năm 2019.
Trên thị trường chứng khoán phái sinh, khối lượng giao dịch bình quân trong tháng Sáu đạt 166.184 hợp đồng/phiên, giảm 19% so với tháng trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, khối lượng giao dịch bình quân đạt 163.984 hợp đồng/phiên, tăng 85% so với bình quân năm trước. Tại thời điểm cuối tháng 5/2020, số lượng tài khoản giao dịch phái sinh đạt 118.126 tài khoản, tăng 7% so với cuối tháng trước.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6 tháng đầu năm 2020 tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2019, mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020 do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 đến tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Sáu và 6 tháng đầu năm đều đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2016-2020[20]. Đây là tín hiệu tích cực phản ánh kết quả việc Chính phủ thực hiện quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 6 tháng ước tính đạt 8,65 tỷ USD, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước[21].
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý II/2020 theo giá hiện hành ước tính đạt 481,2 nghìn tỷ đồng, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn khu vực Nhà nước tăng 7,8%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 4,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 2,4%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành ước tính đạt 850,3 nghìn tỷ đồng, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước và bằng 33% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 273,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 32,2% tổng vốn và tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 375,9 nghìn tỷ đồng, bằng 44,2% và tăng 4,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 200,9 nghìn tỷ đồng, bằng 23,6% và giảm 3,8%.
Tốc độ phát triển và cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện
6 tháng đầu năm giai đoạn 2016-2020 (Theo giá hiện hành)
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện 6 tháng ước tính đạt 154,4 nghìn tỷ đồng, bằng 33,1% kế hoạch năm và tăng 19,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 bằng 33,8% và tăng 4,2%), gồm có: Vốn trung ương quản lý đạt 24,1 nghìn tỷ đồng, bằng 31,1% kế hoạch năm và tăng 48,8% so với cùng kỳ năm trước; vốn địa phương quản lý đạt 130,3 nghìn tỷ đồng, bằng 33,5% và tăng 15%, trong đó vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 86,4 nghìn tỷ đồng, bằng 31,9% và tăng 13,3%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 36,7 nghìn tỷ đồng, bằng 36,1% và tăng 17,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 7,2 nghìn tỷ đồng, bằng 44,3% và tăng 22,9%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/6/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 15,7 tỷ USD, giảm 15,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 1.418 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt gần 8,5 tỷ USD, giảm 17,7% về số dự án và tăng 13,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 526 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 3,7 tỷ USD, tăng 26,8%; có 4.125 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn 3,5 tỷ USD, giảm 56,8%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 866 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 1,6 tỷ USD và 3.259 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 1,9 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 6 tháng đầu năm ước tính đạt 8,65 tỷ USD, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6,1 tỷ USD, chiếm 70,8% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,3 tỷ USD, chiếm 15,5%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 634,3 triệu USD, chiếm 7,3%.
Trong 6 tháng đầu năm nay, ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 4 tỷ USD, chiếm 47,4% tổng vốn đăng ký cấp mới; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 3,6 tỷ USD, chiếm 42,3%; các ngành còn lại đạt 864,5 triệu USD, chiếm 10,3%. Nếu tính cả vốn đăng ký điều chỉnh của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hơn 6,8 tỷ USD, chiếm 56% tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 3,9 tỷ USD[22], chiếm 31,6%; các ngành còn lại đạt 1,5 tỷ USD, chiếm 12,4%. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 34,1% giá trị góp vốn; ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 676 triệu USD, chiếm 19,3%; hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ đạt 464,8 triệu USD, chiếm 13,2%; các ngành còn lại 1,2 tỷ USD, chiếm 33,4%.
Trong số 61 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 6 tháng đầu năm, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 4,3 tỷ USD, chiếm 51,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Trung Quốc 950,1 triệu USD, chiếm 11,3%; Đài Loan 775,2 triệu USD, chiếm 9,2%; Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 770,8 triệu USD, chiếm 9,1%; Hàn Quốc 544,8 triệu USD, chiếm 6,5%; Nhật Bản 323,6 triệu USD, chiếm 3,8%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 137,5 triệu USD, chiếm 1,6%; Thái Lan 134,6 triệu USD, chiếm 1,6%.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2020 có 70 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 185,3 triệu USD; có 14 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm 37,4 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) đạt 222,7 triệu USD, bằng 111,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 137,9 triệu USD, chiếm 61,9% tổng vốn đầu tư; lĩnh vực bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 33,8 triệu USD, chiếm 15,2%; dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 15,9 triệu USD, chiếm 7,1%; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 12 triệu USD, chiếm 5,4%. Trong 6 tháng đầu năm có 22 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Đức là nước dẫn đầu với 92,6 triệu USD, chiếm 41,6%; Mi-an-ma 38,3 triệu USD, chiếm 17,2%; Lào 24,7 triệu USD, chiếm 11,1%; Hoa Kỳ 21,7 triệu USD, chiếm 9,8%; Xin-ga-po 19 triệu USD, chiếm 8,5%; Cam-pu-chia 15,7 triệu USD, chiếm 7,1%.
Công tác kiểm soát dịch Covid-19 được thực hiện tốt và có hiệu quả, các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế trong tháng 6/2020 từng bước trở lại trạng thái hoạt động bình thường như trước khi xảy ra dịch bệnh; đồng thời giá xăng, dầu trong nước tăng theo sự khởi sắc của thị trường dầu thô thế giới đã tác động tích cực đến kết quả thu, chi ngân sách nhà nước trong 15 ngày đầu tháng Sáu.
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2020 ước tính đạt 607,1 nghìn tỷ đồng, bằng 40,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 503,8 nghìn tỷ đồng, bằng 39,9%; thu từ dầu thô 20,2 nghìn tỷ đồng, bằng 57,5%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 82,8 nghìn tỷ đồng, bằng 39,8%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 59 nghìn tỷ đồng, bằng 33,2% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 86,7 nghìn tỷ đồng, bằng 37,9%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 92,3 nghìn tỷ đồng, bằng 34%; thu thuế thu nhập cá nhân 59,3 nghìn tỷ đồng, bằng 46,1%; thu thuế bảo vệ môi trường 24,1 nghìn tỷ đồng, bằng 35,6%; thu tiền sử dụng đất 57,9 nghìn tỷ đồng, bằng 60,4%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2020 ước tính đạt 676,2 nghìn tỷ đồng, bằng 38,7% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 475,1 nghìn tỷ đồng, bằng 45%; chi đầu tư phát triển 140,3 nghìn tỷ đồng, bằng 29,8%; chi trả nợ lãi 56,4 nghìn tỷ đồng, bằng 47,8%.
4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
a) Xuất, nhập khẩu hàng hóa[23]
Dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trên thế giới, đặc biệt tại các nước đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam đã ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất, nhập khẩu của nhiều mặt hàng. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 6 ước tính đạt 41,5 tỷ USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 238,4 tỷ USD, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 121,2 tỷ USD, giảm 1,1%; nhập khẩu đạt 117,2 tỷ USD, giảm 3%. Trong 6 tháng đầu năm xuất siêu đạt mức 4 tỷ USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 5/2020 đạt 19.186 triệu USD, cao hơn 686 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện cao hơn 330 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 196 triệu USD; gạo cao hơn 98 triệu USD; đá quý, kim loại quý và sản phẩm cao hơn 75 triệu USD; hàng dệt may cao hơn 67 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 6/2020 ước tính đạt 21 tỷ USD, tăng 9,5% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,4 tỷ USD, tăng 2.5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 13,6 tỷ USD, tăng 13,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Sáu giảm 2%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 7,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 6,4%. Kim ngạch một số mặt hàng bị tác động bởi dịch Covid-19 do nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường Mỹ và châu Âu sụt giảm: Điện thoại và linh kiện giảm 15,3% so với cùng kỳ năm trước; dệt may giảm 23,6%; giày dép giảm 11%; thủy sản giảm 5,2%. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện trong tháng vẫn đạt giá trị tăng khá với 26,6% so với cùng kỳ năm trước.
Trong quý II/2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 57,98 tỷ USD, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước và giảm 8,3% so với quý I năm nay. Trong quý II có 9 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 70,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện dẫn đầu với 10,2 tỷ USD, chiếm 17,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 20,4% so với cùng kỳ năm trước; điện thoại và linh kiện đạt 8,6 tỷ USD, giảm 24,1%; hàng dệt may đạt 5,7 tỷ USD, giảm 28,1%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 121,21 tỷ USD, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 41,38 tỷ USD, tăng 11,7%, chiếm 34,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 79,83 tỷ USD, giảm 6,7%, chiếm 65,9%.
Trong 6 tháng đầu năm có 22 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 86,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (4 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 52,7%), trong đó điện thoại và linh kiện có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, đạt 21,5 tỷ USD, chiếm 17,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 8,4% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 19,3 tỷ USD, tăng 24,2%; hàng dệt may đạt 12,8 tỷ USD, giảm 15,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 10,3 tỷ USD, tăng 25,2%; giày dép đạt 8,1 tỷ USD, giảm 6,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 5 tỷ USD, tăng 2,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 3,8 tỷ USD, giảm 11,1%; thủy sản đạt 3,6 tỷ USD, giảm 8,3%. Nhìn chung, tỷ trọng xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó: Điện thoại và linh kiện chiếm 91,7%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 70,4%; giày dép chiếm 77,8%; hàng dệt may 58%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản 6 tháng đầu năm nay giảm so với cùng kỳ năm trước: Rau quả đạt 1,8 tỷ USD, giảm 11,4%; cao su đạt 606 triệu USD, giảm 27,8% (lượng giảm 25,7%); hạt tiêu đạt 365 triệu USD, giảm 19,1% (lượng giảm 2,9%). Bên cạnh đó các mặt hàng gạo, cà phê và hạt điều tăng cả lượng và giá trị, gạo đạt 1,7 tỷ USD, tăng 19,3% (lượng tăng 5,6%); cà phê đạt 1,6 tỷ USD, tăng 2,5% (lượng tăng 3,7%); hạt điều đạt 1,5 tỷ USD, tăng 0,7% (lượng tăng 16,6%).
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 6 tháng đầu năm, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 64 tỷ USD, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước; chiếm 52,8% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (tăng 1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước). Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 43,3 tỷ USD, giảm 3,7% và chiếm 35,7% (giảm 1 điểm phần trăm). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 10,4 tỷ USD, tăng 1% và chiếm 8,6% (tăng 0,2 điểm phần trăm). Nhóm hàng thủy sản đạt gần 3,6 tỷ USD, giảm 8,3% và chiếm 2,9% (giảm 0,2 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2020, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 30,3 tỷ USD, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là Trung Quốc đạt 19,5 tỷ USD, tăng 17,4% (do mặt hàng điện thoại và linh kiện tăng 127,9%). Thị trường EU đạt 16,1 tỷ USD, giảm 8,8%. Thị trường ASEAN đạt 11,1 tỷ USD, giảm 14,2%. Nhật Bản đạt 9,4 tỷ USD, giảm 2,3%. Hàn Quốc đạt 9,3 tỷ USD, tăng 2,3%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 5/2020 đạt 18.176 triệu USD, thấp hơn 1.224 triệu USD so với số ước tính, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng thấp hơn 521 triệu USD; vải thấp hơn 170 triệu USD; sắt thép thấp hơn 93 triệu USD; sản phẩm chất dẻo thấp hơn 85 triệu USD; sản phẩm hóa chất thấp hơn 57 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Sáu ước tính đạt 20,5 tỷ USD, tăng 12,8% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 9,5 tỷ USD, tăng 8,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 11 tỷ USD, tăng 16,5%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Sáu tăng 5,3%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 16,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,7%.
Trong quý II/2020, kim ngạch nhập khẩu đạt 57,68 tỷ USD, giảm 9,1% so với cùng kỳ năm trước và giảm 3% so với quý I năm nay. Trong quý II có 13 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 69,9% tổng trị giá nhập khẩu, trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt giá trị cao nhất với 13,3 tỷ USD (chiếm 23% tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu), tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 8,6 tỷ USD, giảm 4,7%; vải đạt 2,9 tỷ USD, giảm 20,8%; điện thoại và linh kiện đạt 2,8 tỷ USD, giảm 8,7%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 117,17 tỷ USD, giảm 3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 51,55 tỷ USD, tăng 0,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 65,62 tỷ USD, giảm 5,4%.
Trong 6 tháng đầu năm 2020 có 22 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 81,2% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 27 tỷ USD (chiếm 23,1% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 16,9 tỷ USD, giảm 4,2%; điện thoại và linh kiện đạt 6 tỷ USD, tăng 3,7%; vải đạt 5,6 tỷ USD, giảm 15,3%; sắt thép đạt 4 tỷ USD, giảm 16,3%; chất dẻo đạt 3,9 tỷ USD, giảm 11,1%; sản phẩm chất dẻo đạt 3,2 tỷ USD, tăng 5,4%; kim loại thường đạt 2,9 tỷ USD, giảm 9%; sản phẩm hóa chất đạt 2,6 tỷ USD, tăng 4,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 2,5 tỷ USD, giảm 14,2%; ô tô đạt 2,4 tỷ USD, giảm 33%; hóa chất đạt 2,4 tỷ USD, giảm 8%; than đá đạt 2,2 tỷ USD, tăng 12,5%; dầu thô đạt 2,1 tỷ USD, giảm 0,1%.
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu 6 tháng đầu năm, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 109,5 tỷ USD, giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 93,5% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu (tăng 0,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước), trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 54,2 tỷ USD, giảm 1,7% và chiếm 46,3% (tăng 0,7 điểm phần trăm); nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt 55,3 tỷ USD, giảm 3,9% và chiếm 47,2% (giảm 0,4 điểm phần trăm). Nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 7,7 tỷ USD, giảm 6,5% và chiếm 6,5% (giảm 0,3 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 6 tháng, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 34,8 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 20,3 tỷ USD, giảm 10%. Thị trường ASEAN đạt 14,2 tỷ USD, giảm 11,9%. Nhật Bản đạt 9,3 tỷ USD, tăng 5,3%. Hoa Kỳ đạt 7,4 tỷ USD, tăng 7,2%. Thị trường EU đạt 7,1 tỷ USD, tăng 8,4%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Năm xuất siêu 1 tỷ USD[24]; 5 tháng xuất siêu 3,5 tỷ USD; tháng Sáu ước tính xuất siêu 500 triệu USD. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa tiếp tục xuất siêu 4 tỷ USD[25] (cùng kỳ năm trước xuất siêu 1,7 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 10,2 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 14,2 tỷ USD.
Trong quý II/2020, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 951 triệu USD, giảm 79,2% so với cùng kỳ năm trước (quý I giảm 23,6%); kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước tính đạt 4 tỷ USD, giảm 25,2% (quý I giảm 3,2%).
Trong 6 tháng đầu năm 2020, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 4,7 tỷ USD, giảm 50,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ du lịch đạt 2,4 tỷ USD (chiếm 51,5% tổng kim ngạch), giảm 56,1%; dịch vụ vận tải đạt 636 triệu USD (chiếm 13,4%), giảm 70,6% do các đường bay quốc tế ngừng khai thác. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm nay ước tính đạt 8,9 tỷ USD, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 3,7 tỷ USD (chiếm 41,8% tổng kim ngạch), giảm 2,4%; dịch vụ du lịch đạt 2,1 tỷ USD (chiếm 23,6%), giảm 32,6%. Nhập siêu dịch vụ trong 6 tháng đầu năm 2020 ước tính đạt 4,2 tỷ USD, bằng 88,6% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2020 tăng 0,66% so với tháng trước, chủ yếu do giá xăng dầu tăng cao 3 đợt liên tiếp sau chuỗi giảm kéo dài kể từ Tết Nguyên đán và giá thịt lợn tiếp tục tăng trong những ngày đầu tháng 6, mặc dù vậy chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2020 vẫn giảm 0,59% so với tháng 12 năm trước – mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020[26]. Bình quân 6 tháng đầu năm 2020, chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,19% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2016-2020[27]. Tỷ giá thương mại hàng hóa bình quân 6 tháng đầu năm 2020 giảm 0,78% so với cùng kỳ năm 2019 phản ánh giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài không thuận lợi so với giá nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về Việt Nam.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2020 tăng 0,66% so với tháng trước, đây là mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2016-2020[28]. Có 7/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chủ yếu có CPI tháng Sáu tăng so với tháng trước, trong đó nhóm giao thông tăng cao nhất với 6,05% do ảnh hưởng từ 2 đợt điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào thời điểm 28/5/2020 và 12/6/2020 làm giá xăng, dầu tăng 14,24% (tác động CPI chung tăng 0,59%). Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,44%, trong đó lương thực giảm 0,4% do giá gạo giảm 0,45%; thực phẩm tăng 0,72%[29]; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,15%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,09% do nhu cầu tiêu dùng đồ uống giải khát trong mùa hè tăng cao[30]; nhóm thiết bị, đồ dùng gia đình tăng 0,07%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục cùng tăng 0,01%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,19%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá giảm: Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,42% chủ yếu do giá điện trong tháng giảm 2,72%[31] và giá thuê nhà ở giảm 0,09%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,04%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,01%. Riêng nhóm may mặc, mũ nón, giày dép không thay đổi.
Tính chung quý II/2020, CPI giảm 1,87% so với quý trước và tăng 2,83% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 12,12% so với cùng kỳ năm trước; nhóm giáo dục tăng 4,52%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 3,36%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,6%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,28%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,82%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,64%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,3%. Ba nhóm có CPI giảm là giao thông giảm 20,12%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,44%; bưu chính viễn thông giảm 0,56%.
CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2020 tăng 4,19% so với bình quân cùng kỳ năm 2019; CPI tháng 6/2020 giảm 0,59% so với tháng 12/2019 và tăng 3,17% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 6 tháng đầu năm nay tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau: (i) Giá các mặt hàng lương thực tăng 3,38% so với cùng kỳ năm trước (làm CPI chung tăng 0,15%); (ii) Giá các mặt hàng thực phẩm tăng 14,28% so với cùng kỳ năm trước (làm CPI chung tăng 3,23%), trong đó riêng giá thịt lợn tăng 68,2% (làm CPI chung tăng 2,86%); (iii) Giá các mặt hàng đồ uống, thuốc lá và các loại quần áo may sẵn tăng cao, lần lượt tăng 1,7% và 0,93% so với cùng kỳ năm 2019.
Bên cạnh đó, có một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI 6 tháng đầu năm: (i) Giá các mặt hàng thiết yếu như xăng, dầu giảm 19,49% (tác động làm CPI chung giảm 0,81%); giá gas trong nước giảm 3,63%; (ii) Ảnh hưởng của dịch Covid-19 và nhu cầu đi lại, du lịch của người dân sau Tết giảm làm giá của nhóm du lịch trọn gói giảm 1,49% so với cùng kỳ năm trước; giá cước vận tải của các loại phương tiện như tàu hỏa, máy bay giảm[32]; (iii) Chính phủ triển khai hàng loạt các gói hỗ trợ cho người dân và người sản xuất gặp khó khăn do dịch Covid-19 như gói hỗ trợ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) triển khai giảm giá điện, tiền điện cho khách hàng nên giá điện tháng 5 và tháng 6 năm nay giảm lần lượt là 0,28% và 2,72% so với tháng trước; (iv) Các cấp, các ngành tích cực triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để ngăn chặn diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 và ổn định thị trường.
Lạm phát cơ bản tháng 6/2020 tăng 0,07% so với tháng trước và tăng 2,45% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng đầu năm 2020 tăng 2,81% so với bình quân cùng kỳ năm 2019.
Giá vàng trong nước tăng theo giá vàng thế giới bởi ảnh hưởng của dịch Covid-19; căng thẳng Mỹ – Trung và các cuộc biểu tình, bạo loạn tại Mỹ khiến vàng trở thành kênh đầu tư an toàn. Bình quân giá vàng thế giới đến ngày 24/6/2020 tăng 0,62% so với tháng 5/2020. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 6/2020 tăng 1,71% so với tháng trước; tăng 16,81% so với tháng 12/2019 và tăng 30,18% so với cùng kỳ năm trước.
Đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới giảm trước hàng loạt thông tin kinh tế quan trọng của nước Mỹ được công bố không mấy khả quan. Trong nước, lượng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dồi dào đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2020 giảm 0,58% so với tháng trước; tăng 0,47% so với tháng 12/2019 và giảm 0,59% so với cùng kỳ năm 2019.
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II/2020 tăng 0,82% so với quý trước và tăng 8,31% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp tăng 2,26% và tăng 12,39%; lâm nghiệp giảm 0,29% và giảm 0,48%; thủy sản giảm 0,33% và giảm 2,4%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 7,13% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp tăng 10,09%; lâm nghiệp giảm 0,29%; thủy sản giảm 0,67%.
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý II/2020 giảm 1,66% so với quý trước và giảm 1,69% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng giảm 18,76% và giảm 19,31%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,93% và giảm 0,81%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 1,73% và giảm 3,38%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,83% và tăng 3,17%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp giảm 0,33% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng giảm 7,37%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,12%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 0,21%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,76%.
Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý II/2020 giảm 1,96% so với quý trước và giảm 0,87% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất dịch vụ của một số ngành như sau: Dịch vụ vận tải, kho bãi giảm 5,86% và giảm 7,74%; dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 0,99% và giảm 0,19%; giáo dục và đào tạo giảm 0,08% và tăng 4,32%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 0,05% và tăng 3,56%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 0,07% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó chỉ số giá sản xuất dịch vụ ngành giáo dục và đào tạo tăng 4,23%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,57%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 0,74%; vận tải, kho bãi giảm 4,87%.
d) Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý II/2020 giảm 1,74% so với quý trước và giảm 1,91% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm giảm 2,07% và giảm 3,27%; nhóm nhiên liệu giảm 30,63% và giảm 38,23%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo giảm 0,35% và tăng 0,07%. Chỉ số giá xuất khẩu quý II so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước của một số mặt hàng như sau: Dầu thô giảm 34,72% và giảm 43,73%; xăng, dầu các loại giảm 25,7% và giảm 29,76%; quặng và khoáng sản giảm 7,93% và tăng 6,39%; sắt thép giảm 5,41% và giảm 7,34%; thủy sản giảm 4,94% và giảm 7,16%; sản phẩm từ hóa chất tăng 5,96% và tăng 1,19%; gạo tăng 2,29% và tăng 3,73%; chè tăng 1,88% và tăng 8,81%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá giảm 1,22% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm giảm 2,34%; nhóm nhiên liệu giảm 25,13%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo tăng 0,01%. Chỉ số giá xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2020 của một số mặt hàng: Dầu thô giảm 29,83%; xăng, dầu các loại giảm 17,13%; cà phê giảm 6,16%; thủy sản giảm 4,71%; sắt thép giảm 4,36%; quặng và khoáng sản tăng 14,65%; chè tăng 7,6%; đá quý và kim loại quý tăng 6,41%; cao su tăng 1,86%.
Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá quý II/2020 giảm 0,74% so với quý trước và giảm 0,98% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó chỉ số giá nhập khẩu của nhóm nông sản, thực phẩm tăng 0,87% và tăng 0,96%; nhóm nhiên liệu giảm 10,71% và giảm 11,54%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo giảm 0,32% và giảm 0,54%. Chỉ số giá nhập khẩu quý II của một số mặt hàng như sau: Khí đốt hóa lỏng giảm 28,67% so với quý trước và giảm 28,48% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu các loại giảm 10,72% và giảm 12,21%; dầu mỡ động thực vật tăng 11,14% và tăng 11,41%; lúa mỳ tăng 2,46% và giảm 0,12%. Tính chung 6 tháng, chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá giảm 0,45% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm tăng 0,98%; nhóm nhiên liệu giảm 3,74%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo giảm 0,37%. Chỉ số giá nhập khẩu 6 tháng của một số mặt hàng: Khí đốt hóa lỏng giảm 12,8%; hóa chất giảm 6,42%; xăng dầu các loại giảm 3,9%; rau quả tăng 6,32%; dầu mỡ động thực vật tăng 4,91%; nguyên phụ liệu dược phẩm tăng 3,87%.
Tỷ giá thương mại hàng hóa[33] quý II/2020 giảm 1% so với quý trước và giảm 0,94% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, tỷ giá thương mại hàng hoá giảm 0,78% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó tỷ giá thương mại hàng hóa của mặt hàng xăng dầu các loại giảm 13,77%; sắt, thép giảm 4,15%; thủy sản giảm 3,41%; rau quả giảm 2,96%; hóa chất tăng 6,87%; cao su tăng 5,12%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 1,67%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 1,21%.
Lao động, việc làm quý II/2020 chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, lao động đang làm việc trong nền kinh tế giảm mạnh. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị cao nhất trong 10 năm trở lại đây[34], tỷ lệ thiếu việc làm tăng, thu nhập của người làm công hưởng lương trong quý II giảm.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý II/2020 ước tính là 53,1 triệu người, giảm 2,2 triệu người so với quý trước và giảm 2,4 triệu người so với cùng kỳ năm trước, đây là năm có mức giảm kỷ lục do trong quý II dịch Covid-19 diễn biến phức tạp cùng với việc áp dụng giãn cách xã hội trong tháng 4/2020 nên thị trường lao động giảm ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và ở các ngành, nghề lao động. Tính chung 6 tháng đầu năm, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 54,2 triệu người, giảm gần 1,3 triệu người so với cùng kỳ năm 2019. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động 6 tháng đầu năm 2020 ước tính đạt 73,8%, giảm 2,8 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động quý II/2020 ước tính là 46,8 triệu người, giảm 2,1 triệu người so với quý trước và giảm 2,2 triệu người so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Lao động nam 25,9 triệu người, chiếm 55,3% tổng số và lao động nữ 20,9 triệu người, chiếm 44,7%; lao động khu vực thành thị là 16,4 triệu người, chiếm 35% và khu vực nông thôn là 30,4 triệu người, chiếm 65%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 47,9 triệu người, giảm 1,1 triệu người người so với cùng kỳ năm trước.
Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc quý II/2020 ước tính 51,8 triệu người, bao gồm 17 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 32,9% tổng số; khu vực công nghiệp và xây dựng 16 triệu người, chiếm 30,9%; khu vực dịch vụ 18,8 triệu người, chiếm 36,2%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc là 53 triệu người, bao gồm 17,6 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 33,2% tổng số (giảm 1,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước); khu vực công nghiệp và xây dựng 16,3 triệu người, chiếm 30,7% (tăng 1,1 điểm phần trăm); khu vực dịch vụ 19,1 triệu người, chiếm 36,1% (tăng 0,5 điểm phần trăm).
Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước 6 tháng đầu năm ước tính là 2,26% (quý I là 2,02%; quý II là 2,51%), trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 3,62%; khu vực nông thôn là 1,59%[35]. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 6 tháng ước tính là 2,47% (quý I là 2,22%; quý II là 2,73%), trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 3,82%; khu vực nông thôn là 1,77%[36]. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) 6 tháng ước tính là 7%, trong đó khu vực thành thị là 10,45%; khu vực nông thôn là 5,5%.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I/2020 là 2,21%; quý II là 2,97%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính là 2,58%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,67%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 3,05% (tỷ lệ thiếu việc làm 6 tháng đầu năm 2019 tương ứng là 1,52%; 0,86%; 1,85%).
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản[37] quý I/2020 là 55,3%; quý II ước tính là 55,9%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản ước tính là 55,6%. Tỷ lệ này tính riêng trong khu vực thành thị 6 tháng đầu năm 2020 là 47,4% và trong khu vực nông thôn là 62,1% (6 tháng đầu năm 2019 tương ứng là 55,9%; 48,0%; 62,1%).
Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương trong quý II/2020 là 6,3 triệu đồng/tháng, giảm 732 nghìn đồng so với quý trước và giảm 180 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu nhập của lao động nam là 6,7 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 5,9 triệu đồng/tháng. Tính chung 6 tháng đầu năm, thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương là 6,7 triệu đồng/tháng, giảm 11 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước.
Theo Kết quả điều tra Mức sống dân cư năm 2019, tỷ lệ nghèo đa chiều có xu hướng giảm dần: giảm từ 7,9% trong năm 2017 xuống 6,8% năm 2018 và đến năm 2019 xuống còn 5,7%, đạt mục tiêu đề ra trong chiến lược giảm nghèo quốc gia. Xu hướng giảm này ở cả thành thị, nông thôn và các vùng kinh tế, đây cũng là kết quả tích cực của công tác xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam.
Đời sống dân cư đang dần được cải thiện, thu nhập bình quân 1 người 1 tháng chung của cả nước theo giá hiện hành năm 2019 đạt gần 4,3 triệu đồng, tăng 10,9% so với năm 2018 (tăng 421 nghìn đồng), trong đó khu vực thành thị đạt hơn 6 triệu đồng, tăng 7,1% (tăng 398 nghìn đồng); khu vực nông thôn đạt 3,4 triệu đồng, tăng 13,8% (tăng 413 nghìn đồng). Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng của nhóm 20% số hộ có thu nhập bình quân đầu người cao nhất đạt 10,1 triệu đồng, gấp 10,2 lần nhóm 20% số hộ có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất đạt 988 nghìn đồng. Chênh lệch thu nhập và phân hoá giàu nghèo trong dân cư còn được thể hiện qua Hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (GINI[38]). Hệ số GINI cả nước năm 2019 là 0,423, trong đó khu vực nông thôn là 0,415 có sự chênh lệch nhiều hơn so với 0,373 của khu vực thành thị.
Đời sống dân cư trong 6 tháng đầu năm tuy chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực từ dịch Covid-19, đặc biệt là giai đoạn từ tháng 2 đến hết tháng 4/2020 nhưng nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành và sự nỗ lực của nhân dân nên nhìn chung đời sống dân cư cả nước vẫn giữ được ổn định và đang dần được cải thiện. Chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua đã có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống nhân dân khu vực nông thôn, đẩy mạnh phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội khu vực nông thôn. Hệ thống cơ sở vật chất văn hóa, trường học được đầu tư xây dựng mới, cải tạo đạt chuẩn, các chương trình hỗ trợ giống cây trồng cho sản xuất nông nghiệp, chính sách cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, cận nghèo… đã góp phần giúp người nông dân phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. Tính đến 31/5/2020, cả nước có 5.177 xã (chiếm 58,2% tổng số xã của cả nước) và 126 huyện (chiếm gần 19% tổng số huyện) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.
Trong tháng Sáu, không có địa phương nào phát sinh thiếu đói. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, cả nước có 16,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, tương ứng với 66,5 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, cùng giảm mạnh 74,6% so với cùng kỳ năm trước cả về số lượt hộ và số lượt nhân khẩu thiếu đói. Thiếu đói trong 6 tháng đầu năm nay xảy ra chủ yếu ở các tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc như: Yên Bái, Hà Giang, Bắc Kạn, Sơn La, Cao Bằng, Điện Biên, Lào Cao. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 733,6 tấn gạo.
Công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Theo báo cáo sơ bộ, tổng các suất quà trao tặng cho các đối tượng chính sách, người có công, các đối tượng bảo trợ xã hội trong 6 tháng đầu năm là hơn 8,1 nghìn tỷ đồng, bao gồm 2,9 nghìn tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 2,6 nghìn tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 2,6 nghìn tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác. Bên cạnh đó, có hơn 18,5 triệu thẻ bảo hiểm y tế, sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát tặng cho các đối tượng chính sách trên địa bàn cả nước. Tính đến ngày 10/6/2020, cả nước giải ngân được 10,5 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, trong đó người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo hơn 10,4 nghìn tỷ đồng; người lao động 50,5 tỷ đồng; hộ kinh doanh 2,6 tỷ đồng.
Năm học 2019-2020, cả nước có 812 nghìn giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy, tăng 0,8% so với năm học trước, bao gồm: 381,6 nghìn giáo viên tiểu học, giảm 1,1%; 286,9 nghìn giáo viên trung học cơ sở, tăng 0,3% và 143,5 nghìn giáo viên trung học phổ thông, tăng 7,1%. Cũng trong năm học này, cả nước có 17 triệu học sinh phổ thông, tăng 2,9% so với năm học trước, bao gồm: 8,7 triệu học sinh tiểu học, tăng 2,3%; 5,6 triệu học sinh trung học cơ sở, tăng 3,5% và 2,7 triệu học sinh trung học phổ thông, tăng 3,7%.
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, lịch học kỳ II năm học 2019-2020 có sự điều chỉnh về thời gian kết thúc nên lịch thi trung học phổ thông quốc gia năm 2020 cũng được điều chỉnh cho phù hợp. Công tác tổ chức kỳ thi đang được chuẩn bị, đảm bảo trung thực, khách quan, an toàn, nghiêm túc, giảm áp lực, giảm tốn kém, đặc biệt phát hiện xử lý gian lận thi cử và tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho học sinh tham dự kỳ thi.
Trong tháng (19/5-18/6/2020), cả nước có 5.109 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 772 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 54 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút (6 trường hợp tử vong); 106 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 13 trường hợp dương tính. Tính chung 6 tháng đầu năm, cả nước có gần 32 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (3 trường hợp tử vong); 5.693 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 240 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút (7 trường hợp tử vong); 6 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu và 2.418 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 208 trường hợp dương tính.
Bệnh bạch hầu thời gian gần đây đang có dấu hiệu quay trở lại, dễ lây lan thành dịch và nguy cơ tử vong cao. Tính đến ngày 24/6/2020, tại hai huyện Đắk G’long và Krông Nô của tỉnh Đắk Nông đã phát hiện 12 trường hợp dương tính với bạch hầu (1 trường hợp tử vong).
Dịch Covid-19 trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp[39]. Tại Việt Nam, tình hình dịch đang được kiểm soát tốt và chuyển sang trạng thái bình thường mới, tiếp tục chuỗi ngày không ghi nhận ca mắc mới Covid-19 trong cộng đồng. Tính đến 12h00 ngày 26/6/2020, Việt Nam có 352 trường hợp mắc (329 trường hợp đã được chữa khỏi).
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/6/2020 là 210,6 nghìn người; số người đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 97.175 người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 98.739 người.
Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Sáu xảy ra 9 vụ với 393 người bị ngộ độc. Tính chung 6 tháng đầu năm, cả nước xảy ra 40 vụ với 1.087 người bị ngộ độc (15 người tử vong).
Dịch Covid-19 bùng phát và diễn biến phức tạp trong những tháng đầu năm 2020 đã ảnh hưởng đến các hoạt động văn hóa, thể thao trong nước. Thực hiện chỉ đạo về công tác phòng, chống dịch Covid-19, các địa phương nghiêm túc thực hiện việc dừng các lễ hội có số lượng lớn người dân và du khách tham gia cũng như các hoạt động văn hóa, văn nghệ, lễ kỷ niệm, ngày truyền thống, các chương trình vui chơi, giải trí tập trung đông người.
Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều di tích văn hóa lịch sử được quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo gắn với khai thác, phát triển du lịch. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục được triển khai rộng khắp trên cả nước đã tạo dựng được môi trường văn hóa lành mạnh, giúp người dân có điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống. Hoạt động thư viện có nhiều đổi mới, tích cực, chủ động, sáng tạo, triển khai các dịch vụ mới, đẩy mạnh việc cung cấp các dịch vụ từ xa, dịch vụ trực tuyến nhằm đảm bảo duy trì việc cung cấp thông tin cho người dân.
Phong trào thể thao quần chúng tiếp tục được đẩy mạnh gắn với cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”; triển khai chương trình bơi an toàn, phòng chống đuối nước trẻ em năm 2020; triển khai các giải, hội thi thể thao trong tình hình mới đảm bảo các biện pháp an toàn về công tác phòng, chống dịch Covid-19.
Về thể thao thành tích cao: Tổ chức tập huấn 1.357 lượt vận động viên, 282 huấn luyện viên để chuẩn bị lực lượng tham dự Sea Games 31 và Para Games 11, vòng loại Olympic và Paralympic Tokyo và các giải thể thao quốc tế khác năm 2020 (trong đó đội tuyển quốc gia gồm 538 vận động viên, 114 huấn luyện viên; đội tuyển trẻ quốc gia gồm 819 vận động viên, 168 huấn luyện viên). Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, đoàn thể thao Việt Nam tham dự 14 giải thể thao quốc tế, giành 26 huy chương vàng, 11 huy chương bạc và 8 huy chương đồng trên các đấu trường quốc tế và đoàn thể thao Việt Nam đã có 5 suất chính thức tham dự Olympic Tokyo 2020 gồm các môn: Bắn cung, boxing, thể dục dụng cụ và bơi.
Trong tháng (từ 15/5 đến 14/6), trên địa bàn cả nước xảy ra 1.135 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 632 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 503 vụ va chạm giao thông, làm 489 người chết, 344 người bị thương và 527 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Sáu giảm 18,9% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 19,6% và số vụ va chạm giao thông giảm 17,9%); số người chết giảm 22,5%; số người bị thương giảm 21,6% và số người bị thương nhẹ giảm 20,9%. Đáng lưu ý là trong tháng đã xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng: Vụ tai nạn xảy ra ngày 4/6 tại Thanh Hóa giữa xe ô tô 4 chỗ và xe tải làm 3 người chết và 1 người bị thương; vụ tai nạn xảy ra ngày 8/6 tại thành phố Hồ Chí Minh giữa 7 xe ô tô và xe máy làm 5 người bị thương; vụ tai nạn xảy ra ngày 13/6 tại Đắk Nông giữa xe tải và 2 xe ô tô làm 3 người chết và 7 người bị thương ; vụ tai nạn xảy ra ngày 18/6 tại Quảng Ninh giữa xe đầu kéo và xe khách làm 3 người chết.
Tình hình tai nạn giao thông trong 6 tháng đầu năm giảm trên cả 3 tiêu chí do hiệu quả của Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt và ảnh hưởng của giãn cách xã hội do đại dịch Covid-19. Trong 6 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 6.790 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 3.864 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 2.926 vụ va chạm giao thông, làm 3.242 người chết, 1.931 người bị thương và 3.008 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 6 tháng giảm 19% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 12,3%; số vụ va chạm giao thông giảm 26,5%); số người chết giảm 14,9%; số người bị thương giảm 16,8% và số người bị thương nhẹ giảm 25,5%. Bình quân 1 ngày trong 6 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 37 vụ tai nạn giao thông, gồm 21 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 16 vụ va chạm giao thông, làm 18 người chết, 11 người bị thương và 16 người bị thương nhẹ.
Thiệt hại do thiên tai trong tháng Sáu chủ yếu do ảnh hưởng của gió mạnh trên biển, mưa đá, mưa lớn, giông lốc, xâm nhập mặn và sạt lở sụt lún đất làm 16 người chết và 37 người bị thương; 17,1 nghìn ha lúa và 9,3 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; 561 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hơn 4 nghìn ngôi nhà bị hư hại. Theo báo cáo sơ bộ từ các địa phương, tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong tháng gần 666,7 tỷ đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm, thiên tai làm 40 người chết và 133 người bị thương; hơn 118 nghìn ha lúa và gần 35,8 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; 1.167 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; gần 64 nghìn ngôi nhà bị hư hỏng. Riêng hạn hán, xâm nhập mặn xảy ra tại các tỉnh Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long làm thiệt hại gần 90 nghìn ha lúa và 22,5 nghìn ha hoa màu, tổng giá trị thiệt hại lên tới 3,6 nghìn tỷ đồng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong 6 tháng ước tính hơn 4,8 nghìn tỷ đồng, gấp 10 lần so với cùng kỳ năm 2019.
Trong tháng Sáu, cơ quan chức năng đã phát hiện 877 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 797 vụ với tổng số tiền phạt là 11,8 tỷ đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm đã phát hiện 5.028 vụ vi phạm môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 4.458 vụ với tổng số tiền phạt 89,8 tỷ đồng.
Trong tháng (từ ngày 16/5 đến ngày 15/6), trên địa bàn cả nước xảy ra 238 vụ cháy, nổ, làm 5 người chết và 17 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính gần 34,3 tỷ đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm (từ ngày 16/12/2019 đến ngày 15/6/2020), cả nước xảy ra 1.509 vụ cháy, nổ, làm 48 người chết và 111 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính là 336,6 tỷ đồng.
Khái quát lại, trong bối cảnh kinh tế thế giới và thương mại toàn cầu suy giảm nhanh, ngày càng nghiêm trọng do ảnh hưởng diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, bức tranh kinh tế – xã hội Việt Nam 6 tháng đầu năm 2020 tiếp tục duy trì được ổn định là nhờ sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các cấp, các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước. Sau khi các biện pháp giãn cách xã hội được nới lỏng, cùng với tác động tích cực từ những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người dân của Chính phủ, các lĩnh vực kinh tế – xã hội đang bước vào trạng thái hoạt động bình thường trở lại, nhiều ngành sản xuất kinh doanh có sự khởi sắc và dần lấy lại đà tăng trưởng từ tháng 5/2020. Kinh tế 6 tháng đầu năm chỉ đạt mức tăng trưởng 1,81%, thấp nhất 10 năm qua nhưng trong bối cảnh hiện nay, đây là mức tăng trưởng khá so với các nước trong khu vực và trên thế giới[40]. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn và dịch bệnh nhưng duy trì được mức tăng trưởng dương. Công nghiệp chế biến, chế tạo tuy không tăng cao nhưng tiếp tục giữ vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm. Cung cầu hàng hóa trong nước được bảo đảm, hoạt động mua sắm hàng hóa, tiêu dùng của người dân có dấu hiệu tăng trở lại. Cán cân thương mại hàng hóa duy trì mức xuất siêu cao. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, kinh tế – xã hội Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức, nhất là nền kinh tế nước ta có độ mở lớn nên chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi tình hình kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, khó lường. Dịch Covid-19 tuy đã cơ bản được khống chế ở Việt Nam nhưng còn diễn biến phức tạp trên thế giới, làm cho các ngành thương mại, du lịch, vận tải và xuất nhập khẩu tiếp tục gặp khó khăn do chịu tác động trực tiếp của dịch bệnh, doanh nghiệp đứng trước nguy cơ thiếu nguyên liệu sản xuất, thu hẹp quy mô và tạm dừng hoạt động. Áp lực kiểm soát lạm phát, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm tăng cao sẽ ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Do đó cần có sự chung sức, đồng lòng của Chính phủ, doanh nghiệp và người dân, sự hỗ trợ và chia sẻ gánh vác trách nhiệm giữa các thực thể trong nước trong giai đoạn khó khăn này. Trước mắt, cần tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp phòng, chống dịch Covid-19, không để dịch lây lan, bảo đảm an toàn sức khỏe cho người dân, chủ động có giải pháp ngăn ngừa làn sóng Covid-19 đợt 2 có khả năng diễn ra trong thời gian tới. Đồng thời, tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục cải cách quy trình, thủ tục để doanh nghiệp tiếp cận các chính sách hỗ trợ đơn giản, thuận tiện, kịp thời. Hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp trong việc tìm thị trường nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu, phụ tùng, linh kiện thay thế, tháo gỡ khó khăn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời, vận động người dân ưu tiên dùng hàng trong nước, ủng hộ doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trong giai đoạn khó khăn.
Hai là, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công kế hoạch năm 2020, tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa nhằm thực hiện đột phá chiến lược về kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế như mở rộng Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, Nội Bài, xây dựng mới Cảng hàng không quốc tế Long Thành, Đường cao tốc Bắc – Nam…
Ba là, triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp phòng, chống dịch tả lợn châu Phi, không để phát sinh ổ dịch mới; khuyến khích các cơ sở, doanh nghiệp chăn nuôi lớn, có kỹ thuật, kinh nghiệm phòng chống dịch bệnh đẩy nhanh tiến độ và quy mô tái đàn phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và giảm giá thịt lợn góp phần kiểm soát lạm phát. Hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, chế biến cá tra đẩy mạnh tiêu thụ trên thị trường nội địa.
Bốn là, kích cầu đầu tư trong khối doanh nghiệp sản xuất cho xuất khẩu để chủ động nguồn hàng khi thị trường các nước trên thế giới mở lại bình thường và tận dụng cơ hội từ Hiệp định Thương mại tự do châu Âu – Việt Nam có hiệu lực từ tháng 8/2020. Cần có chính sách khuyến khích và hạn chế nhập khẩu phù hợp với tình hình sản xuất, cung cầu trong nước như khuyến khích nhập khẩu máy móc thiết bị mở rộng sản xuất, hạn chế nhập khẩu các mặt hàng, nhóm hàng hóa trong nước có đủ năng lực sản xuất. Chính phủ và doanh nghiệp nghiên cứu các giải pháp về thể chế, nguồn nhân lực, quy trình, công nghệ sản xuất và chiến lược kinh doanh để tận dụng và hòa nhập được các quy định Hiệp định Thương mại tự do và Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và EU (EVFTA và IPA).
Năm là, điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, hỗ trợ sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các tổ chức tín dụng đáp ứng đủ nhu cầu vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các ngành hàng có tính mùa vụ và gặp khó khăn trong tiêu thụ. Theo dõi sát diễn biến giá cả các mặt hàng trong và ngoài nước phục vụ hoạt động sản xuất và tiêu dùng để có các biện pháp điều hành hợp lý nhằm bình ổn thị trường.
Sáu là, theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, chủ động phương án phòng chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ, sạt lở, tác động của hạn hán, xâm nhập mặn nhằm hạn chế tối đa thiệt hại tới sản xuất và cuộc sống của người dân. Thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm. Thực hiện tốt công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Tăng cường công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ./.
[1] Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chỉ số thương mại chỉ đạt 87,6, thấp hơn nhiều so với giá trị cơ bản là 100, cho thấy thương mại thế giới suy giảm mạnh trong quý II. Đây là giá trị thấp nhất kể từ khi tổ chức này công bố chỉ số thương mại vào tháng 7/2016.
[2] Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tiếp tục hạ mức dự báo tăng trưởng toàn cầu thấp hơn 1,9 điểm phần trăm so với dự báo hồi tháng 4/2020, xuống còn âm 4,9%. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đưa ra hai kịch bản: (1) Nếu dịch Covid-19 bùng phát lần 2, tăng trưởng toàn cầu âm 7,6%; (2) Nếu có thể tránh được dịch Covid-19 bùng phát lần 2, tăng trưởng toàn cầu âm 6%. Liên hợp quốc (UN) dự báo tăng trưởng toàn cầu âm 4,9% trong năm 2020. Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng toàn cầu âm 5,2%, là mức suy giảm lớn nhất từ cuộc đại suy thoái những năm 1930.
[3] Tốc độ tăng GDP quý II các năm 2011-2020 lần lượt là: 5,93%; 5,08%; 5,0%; 5,34%; 6,47%; 5,78%; 6,36%; 6,73%; 6,73%; 0,36%.
[4] Tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 5,92%; 4,93%; 4,90%; 5,22%; 6,32%; 5,65%; 5,83%; 7,05%; 6,77%; 1,81%.
[5] Tốc độ tăng/giảm giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 4,24%; 2,69%; 1,87%; 2,15%; 1,72%; -0,78%; 2,13%; 3,07%; 1,15%; 0,83%.
[6] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành thủy sản 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 3,40%; 4,85%; 2,34%; 5,89%; 3,30%; 1,25%; 5,08%; 6,29%; 6,55%; 2,37%.
[7] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 9,24%; 8,24%; 4,95%; 4,95%; 9,66%; 7,01%; 5,42%; 9,28%; 9,13%; 2,71%.
[8] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 13,37%; 8,96%; 5,61%; 6,61%; 10,0%; 10,5%; 10,52%; 12,87%; 11,18%; 4,96%.
[9] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành xây dựng 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 0,11%; 2,41%; 5,06%; 6,11%; 7,66%; 9,30%; 8,50%; 7,93%; 7,85%; 4,50%.
[10] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ các năm 2011-2020 lần lượt là: 6,91%; 6,11%; 6,13%; 5,82%; 5,86%; 6,47%; 6,89%; 6,89%; 6,69%; 0,57%.
[11] Tổng số lợn của cả nước tháng 6/2020 đạt 23,05 triệu con, trong khi tháng 6/2019 đạt 24,92 triệu con.
[12] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng so với cùng kỳ năm trước giai đoạn 2011-2020 lần lượt là: 13,37%; 8,96%; 5,61%; 6,61%; 10,0%; 10,50%; 10,52%; 12,87%; 11,18%; 4,96%.
[13] Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 5/2020 tăng 11,9% so với tháng trước; IIP tháng 6/2020 tăng 10,3% so với tháng trước.
[14] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[15] So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp tăng 5,9%; số vốn đăng ký giảm 26,9%; lao động giảm 10,5%.
[16] Chỉ số tương ứng của quý I/2020: Có 20,9% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý trước; 42% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 37,1% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định.
[17] Chỉ số tương ứng của quý I/2020: Có 22,7% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp tăng so với quý trước; 39,5% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm và 37,8% số doanh nghiệp cho rằng ổn định.
[18] Chỉ số tương ứng của quý I/2020: Có 19,8% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng tăng so với quý trước; 38,6% số doanh nghiệp có đơn đăt hàng giảm và 41,6% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng ổn định.
[19] Tăng trưởng tín dụng tính đến thời điểm 19/6 các năm 2016-2020 lần lượt là: 6,2%; 7,54%; 6,35%; 6,22%; 2,45%.
[20] Tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn NSNN tháng Sáu so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020: Năm 2016 tăng 10,5%; năm 2017 tăng 8,4%; năm 2018 tăng 10,2%; năm 2019 tăng 4,4%; năm 2020 tăng 28,5%. Tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn NSNN 6 tháng so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020: Năm 2016 tăng 11,7%; năm 2017 tăng 6,1%; năm 2018 tăng 9,5%; năm 2019 tăng 4,2%; năm 2020 tăng 19,2%.
[21] Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 6 tháng đầu năm các năm 2016-2020 lần lượt là: 7,3 tỷ USD; 7,7 tỷ USD; 8,4 tỷ USD; 9,1 tỷ USD; 8,7 tỷ USD.
[22] Ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí có 3 dự án điều chỉnh vốn làm giảm 152,8 triệu USD.
[23] Số liệu tháng 6/2020 do Tổ liên ngành gồm Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục Hải Quan – Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê ước tính căn cứ trên số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu kỳ I trong tháng (từ ngày 01 đến ngày 15) của Tổng cục Hải quan kết hợp với thông tin thị trường, tỷ trọng và xu hướng xuất, nhập khẩu các mặt hàng.
[24] Ước tính tháng Năm nhập siêu 900 triệu USD.
[25] Trong đó, 6 tháng đầu năm 2020 xuất siêu sang EU đạt 9 tỷ USD, giảm 18,9% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 15,3 tỷ USD, giảm 19,3%; nhập siêu từ Hàn Quốc 11 tỷ USD, giảm 18,3%; nhập siêu từ ASEAN 3,1 tỷ USD, giảm 2,4%.
[26] Tốc độ tăng/giảm CPI tháng Sáu so với tháng 12 năm trước của các năm giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: tăng 2,35%; tăng 0,2%; tăng 2,22%; tăng 1,41%; giảm 0,59%.
[27] Tốc độ tăng CPI bình quân 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020 lần lượt là: 1,72%; 4,15%; 3,29%; 2,64%; 4,19%.
[28] Tốc độ tăng/giảm CPI tháng Sáu so với tháng trước của các năm giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: tăng 0,46%; giảm 0,17%; tăng 0,61%; giảm 0,09%; tăng 0,66%.
[29] Chủ yếu do giá thịt lợn tăng 3,36% (làm CPI chung tăng 0,14%); giá thịt chế biến tăng 2,04%, mỡ ăn tăng 4,93%; giá thịt gia cầm khác (ngan, vịt) tăng 2,19%; giá quả tươi, chế biến tăng 0,53%.
[30] Giá nước khoáng tăng 0,05%, giá nước quả ép tăng 0,24%, giá nước uống tăng lực đóng chai tăng 0,11%.
[31] Thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2020 và công văn số 2698/BCT-ĐTĐL ngày 16/4/2020 của Bộ Công Thương về việc hỗ trợ giảm giá điện, giảm tiền điện cho các khách hàng sử dụng điện bị ảnh hưởng của dịch Covid-19, dựa trên sản lượng và doanh thu điện sinh hoạt từ ngày 01/5/2020 đến này 30/5/2020.
[32] Giá vé máy bay giảm 29,8% so với cùng kỳ năm trước.
[33] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.
[34] Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị quý II các năm 2011-2020 lần lượt là: 3,59%; 3,12%; 3,66%; 3,26%; 3,53%; 3,11%; 3,19%; 3,09%; 3,10%; 4,46%.
[35] Tỷ lệ thất nghiệp chung 6 tháng đầu năm 2019 là 1,99%, trong đó khu vực thành thị là 2,94%; nông thôn 1,53%.
[36] Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 6 tháng đầu năm 2019 là 2,16%, trong đó khu vực thành thị là 3,10%; nông thôn 1,69%.
[37] Lao động có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp bao gồm những người không làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản và thuộc một trong ba nhóm sau: (i) người làm công ăn lương thuộc khu vực chính thức không được ký hợp đồng lao động hoặc có hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực chính thức và thành viên hợp tác xã không có bảo hiểm xã hội bắt buộc; (ii) chủ cơ sở, lao động tự làm, lao động làm công ăn lương và lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực phi chính thức; (iii) lao động tự làm phục vụ nhu cầu tự tiêu dùng của hộ gia đình và lao động làm thuê trong các hộ gia đình.
[38] Hệ số GINI có giá trị từ 0 đến 1. Giá trị của hệ số GINI bằng 0 thể hiện sự bình đẳng tuyệt đối và ngược lại nếu hệ số GINI bằng 1 thể hiện sự bất bình đẳng tuyệt đối. Theo đó thì giá trị của hệ số GINI càng lớn thì sự bất bình đẳng càng cao.
[39] Tính đến 12h00 ngày 26/6/2020, trên thế giới có 9.714,8 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (491,9 nghìn trường hợp tử vong).
[40] Theo dự báo của WB, tăng trưởng của Hoa Kỳ năm 2020 sẽ âm 6,1%; khu vực đồng Euro âm 9,1%; Nhật Bản âm 6,1%; Ma-lai-xi-a âm 3,1%; Thái Lan âm 5%; Phi-li-pin âm 1,9%; Trung Quốc gần rơi vào tình trạng suy thoái với tăng trưởng chỉ đạt 1%, mức thấp nhất trong hơn 4 thập kỷ qua.