Núi Cấm là địa danh đầu tiên được nhắc đến khi bạn đặt chân đến thành phố Hà Giang. Núi Cấm hay còn được gọi là Thiên Cẩm Sơn sở hữu cảnh vật với cây cỏ, hoa lá đẹp tựa dải gấm trời. Khi đến đây bạn cũng được chiêm ngưỡng ngọn núi oai vệ, lẫm liệt như hình ảnh những con sư tử hùng dũng và oai phong giữa đất trời.
Núi Cấm là địa danh đầu tiên được nhắc đến khi bạn đặt chân đến thành phố Hà Giang. Núi Cấm hay còn được gọi là Thiên Cẩm Sơn sở hữu cảnh vật với cây cỏ, hoa lá đẹp tựa dải gấm trời. Khi đến đây bạn cũng được chiêm ngưỡng ngọn núi oai vệ, lẫm liệt như hình ảnh những con sư tử hùng dũng và oai phong giữa đất trời.
Tháp đồng hồ Asia trong trung tâm TP Vị Thanh.
Đến dự lễ công bố có Đại tướng Lê Văn Dũng - Bí thư TW Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục
QĐND Việt Nam; ông Trần Văn Tuấn - Bộ trưởng Bộ Nội Vụ; cùng đại diện lãnh đạo các tỉnh, thành phố khu vực ĐBSCL.
Theo Nghị quyết 34/NQ-CP của Chính phủ, thành lập TP Vị Thanh trên cơ sở hiện trạng diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính của thị xã Vị Thanh. Theo đó, TP Vị Thanh có diện tích tự nhiên là gần 12.000 ha; hơn 97.000 nhân khẩu; 5 phường và 4 xã.
Ông Lâm Quang Tâm - Chủ tịch UBND TP Vị Thanh - cho biết, Vị Thanh lên thành phố là một tất yếu của sự phát triển nội tại và trong mối quan hệ với các địa phương khác trong khu vực.
Sau khi lên thành phố sẽ phấn đấu đến năm 2015 đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 18-19%/năm; GDP bình quân đầu người đạt 70 triệu đồng/người/năm; tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 45.000 tỷ đồng; giá trị sản xuất là 25.000 tỷ đồng…
Phát biểu tại buổi lễ, Đại tướng Lê Văn Dũng khẳng định: “Việc Chính phủ công nhận TP Vị Thanh là ghi nhận sự nỗ lực và đoàn kết xây dựng địa phương của nhân dân Vị Thanh trong thời gian qua”.
Tuy nhiên, Vị Thanh vẫn còn những khó khăn nhất định như kinh tế phát triển chưa bền vững, năng suất cạnh tranh hàng hóa chưa cao, mặt bằng giáo dục, đời sống nhân dân còn thấp… “Chính vì thế, thay mặt Đảng và Nhà nước, tôi mong muốn TP Vị Thanh tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn thể nhân dân hơn nữa để xây dựng phát triển kinh tế - xã hội” - Đại tướng Dũng nói thêm.
Như vậy, sau khi Hậu Giang công bố thành lập TP Vị Thanh thì 13 tỉnh, thành khu vực ĐBSCL đều đã có đơn vị hành chính cấp thành phố.
Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 tỉnh Hậu Giang thông tin kết quả phân loại đánh giá mức độ nguy cơ dịch Covid-19 của các xã, phường, thị trấn; các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Hậu Giang (tính đến ngày 29 tháng 8 năm 2021) và triển khai áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch tương ứng.
Đây là phân loại đánh giá mức độ nguy cơ của Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 tỉnh, việc công nhận các "vùng xanh" tại cơ sở được giao về cho các huyện, thị, thành phố, đến thời điểm này, các địa phương chưa công nhận "vùng xanh" nào. Riêng thành phố Vị Thanh và thành phố Ngã Bảy sẽ có hướng dẫn riêng từ tỉnh.
Đa phần địa phương cấp xã đều “xanh”
Có 3 huyện, thành phố “Bình thường mới” (xanh) là thành phố Vị Thanh, thành phố Ngã Bảy và huyện Châu Thành A; 4 huyện, thị có “Nguy cơ” (vàng) là huyện Châu Thành, huyện Phụng Hiệp, huyện Long Mỹ và thị xã Long Mỹ; riêng huyện Vị Thủy được đánh giá có “Nguy cơ cao” (cam). Không có địa phương cấp huyện “Nguy cơ rất cao” (đỏ). Còn tỉnh Hậu Giang được đánh giá là “Nguy cơ” (vàng).
* Đối với địa phương cấp xã, có 67/75 xã “xanh”; 6 xã “vàng”, 1 xã “cam” và 1 xã “đỏ”. Cụ thể, 6 xã “vàng” là Phú Tân (huyện Châu Thành); Hiệp Hưng (huyện Phụng Hiệp); Thuận Hòa (huyện Long Mỹ); Long Phú và phường Thuận An (thị xã Long Mỹ); xã Vị Thủy (huyện Vị Thủy). 1 địa phương “cam” là thị trấn Nàng Mau, 1 địa phương “đỏ” là xã Vị Thắng, đều của huyện Vị Thủy.
* Đối với ấp, khu vực, có 16 địa bàn “đỏ” đều thuộc các xã “vàng”, “cam”, “đỏ”, kể trên và là những nơi đang thiết lập các vùng cách ly y tế hoặc có trường hợp nhiễm bệnh cộng đồng: ấp Phú Trí (xã Phú Tân); ấp Long Phụng A (xã Hiệp Hưng); ấp 2, xã Thuận Hòa; ấp Tân Bình 1, Long Hòa 1,Long Hòa 2 của xã Long Phú; khu vực 5, phường Thuận An; ấp 5, ấp 1, ấp 2, ấp 3 của thị trấn Nàng Mau; ấp 2, ấp 8, ấp 5 của xã Vị Thủy; ấp 11, ấp 9 của xã Vị Thắng.
Công nhận gắn liền bảo vệ những “vùng xanh”, “chuyển màu những vùng chưa xanh". Riêng thành phố Vị Thanh và thành phố Ngã Bảy, UBND tỉnh có hướng dẫn riêng
*Đối với các xã mức bình thường mới (vùng xanh): Yêu cầu UBND huyện, thị xã tổ chức công nhận “vùng xanh” đối với các xã, phường, thị trấn thuộc địa bàn quản lý; xây dựng phương án bảo vệ và duy trì “vùng xanh” để áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch tương ứng theo quy định tại mục 1, Công văn số 1568/UBND-NCTH ngày 22 tháng 8 năm 2021 của Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang về việc tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới.
Đối với thành phố Vị Thanh và thành phố Ngã Bảy do đặc thù riêng, khu vực đông dân cư, địa hình các xã, phường trung tâm khó lập các chốt kiểm soát ra vào địa bàn từng phường, xã; vì vậy, UBND tỉnh sẽ có văn bản hướng dẫn riêng.
* Đối với các xã vùng vàng, cam, đỏ: Yêu cầu UBND huyện, thị xã tiếp tục áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch tương ứng theo quy định tại mục 2, Công văn số 1568/UBND-NCTH ngày 22 tháng 8 năm 2021 của Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang về việc tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới; Tăng cường các giải pháp cụ thể nhằm kiểm soát các ổ dịch, khoanh vùng, dập dịch triệt để nhằm mở rộng vùng xanh trong thời gian sớm nhất.
Mọi người hạn chế ra khỏi nơi cư trú khi không thật sự cần thiết
Thành viên Ban Chỉ đạo tỉnh được phân công phụ trách địa bàn tăng cường công tác kiểm tra ở địa phương để chỉ đạo sát sao việc thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch phù hợp đối với từng địa bàn, đảm bảo kiểm soát được tình hình dịch bệnh, ổn định đời sống Nhân dân và an ninh trật tự trên địa bàn.
Sở Y tế phối hợp với UBND huyện, thị xã, thành phố giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh trên địa bàn, đảm bảo công tác xét nghiệm, cách ly và điều trị hiệu quả, đáp ứng tình hình dịch tại tỉnh.
Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Báo Hậu Giang, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Hậu Giang: tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền kịp thời cung cấp thông tin chính xác về tình hình dịch bệnh, các biện pháp áp dụng trong phòng, chống dịch bệnh của tỉnh; tập trung tuyên truyền các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trong “vùng xanh”, các vùng “vàng, cam, đỏ” theo quy định của tỉnh; đặc biệt tuyên truyền cho người dân nêu cao ý thức cảnh giác, không chủ quan, lơ là, không tập trung đông người (kể cả việc tổ chức tiệc cưới, hỏi, họp mặt, liên hoan,...), hạn chế ra khỏi nơi cư trú khi không thật sự cần thiết và tự giác khai báo y tế khi rời khỏi nơi cư trú, khi đến vùng dịch hoặc có tiếp xúc với người về từ vùng dịch; tích cực phối hợp cùng chính quyền và các ngành chức năng trong công tác phòng, chống dịch bệnh.
(Theo Hoàng Nguyên – Báo Hậu Giang)
Chủ nhật, 26/09/2010 15:19 (GMT+7)
(ĐCSVN)- Ngày 23/9/2010, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị quyết số 34/NQ-CP, thành lập thành phố Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang, trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Vị Thanh.
Một góc thành phố Vị Thanh Thành phố Vị Thanh có diện tích 11.867,74 ha, 97.222 nhân khẩu, 9 đơn vị hành chính cấp xã, gồm các phường: I, III, IV, V, VII và các xã: Vị Tân, Hoả Lựu, Tân Tiến, Hoả Tiến.
Địa giới hành chính của thành phố Vị Thanh: Đông giáp huyện Vị Thuỷ (Hậu Giang); Tây giáp huyện Gò Quao (Kiên Giang); Nam giáp huyện Long Mỹ (Hậu Giang); Bắc giáp huyện Vị Thuỷ (Hậu Giang) và huyện Giồng Riềng (Kiên Giang).Trước năm 1991, Tỉnh lỵ của Hậu Giang đặt tại thị xã Cần Thơ. Khi thành phố Cần Thơ được tách ra trực thuộc trung ương thì Tỉnh lỵ chuyển về thị trấn Vị Thanh. Ngày 1 tháng 7 năm 1999, nghị định 45/1999/NĐ-CP ban hành thành lập thị xã Vị Thanh./.
Bắc Giang là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Bắc Giang, Việt Nam.
Trong chiến đấu và xây dựng đất nước, thành phố Bắc Giang đã có hàng ngàn lượt tập thể, cá nhân được Đảng, Nhà nước phong tặng nhiều danh hiệu, phần thưởng cao quý. Trong đó, thành phố được tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Mỹ", Huân chương lao động hạng Nhì trong thời kỳ đổi mới; 5 phường, xã được phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ"; phong tặng và truy tặng 26 danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Thành phố đã 4 lần vinh dự được đón Bác Hồ về thăm, làm việc với tỉnh và thành phố là các năm: 1955, 1959, 1961, 1963.
Thành phố Bắc Giang là địa danh lịch sử, xưa thuộc Bộ Vũ Ninh. Trấn Kinh Bắc – là trấn thứ tư, trong bốn kinh trấn và đứng đầu phên dậu phía Bắc của quốc gia Đại Việt, có vị trí quân sự trọng yếu gắn liền với chiến thắng Xương Giang vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn muôn thuở còn truyền, tiêu diệt hoàn toàn 10 vạn quân viện binh do Liễu Thăng chỉ huy đã kết thúc 20 năm đô hộ của triều đại phong kiến nhà Minh; bên cạnh đó còn là một trong những trung tâm kinh tế - văn hoá được hình thành và phát triển từ thời kỳ đầu Công Nguyên; từng là phủ lỵ Lạng Giang (thành Châu Xuyên, xã Dĩnh Uyên – Tân Tiến), Bảo Lộc (thành Thọ Xương), huyện lỵ Phượng Nhỡn (xã Dĩnh Uyên – nay là 6 thôn của xã Tân Tiến và thôn Lường của Dĩnh Kế).
Từ một căn cứ quân sự, Phủ Lạng Thương đã trở thành một đô thị với nhiều phố lớn, nhà ga, bến cảng, khách sạn, bưu điện, câu lạc bộ, trường học, công viên, sân vận động,...
Dưới thời Pháp thuộc, ngày 11 tháng 7 năm 1888 đơn vị hành chính Phủ Lạng Thương ra đời.
Ngày 10 tháng 10 năm 1895, tỉnh Bắc Giang được thành lập, Phủ Lạng Thương trở thành tỉnh lỵ tỉnh Bắc Giang.[5]
Ngày 28 tháng 10 năm 1902, Thống sứ Bắc Kỳ ban hành Quyết định về việc địa giới thị xã Phủ Lạng Thương được quy định như sau:
Ngày 13 tháng 3 năm 1923, Thống sứ Bắc Kỳ ban hành Quyết định ba khu đã được dự kiến trong Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1899 được ấn định như sau đối với Phủ Lạng Thương:
Ngày 25 tháng 11 năm 1927, Thống sứ Bắc Kỳ ban hành Nghị định về việc:
Ngày 21 tháng 12 năm 1927, Quyền thống sứ Bắc Kỳ ban đầu Quyết định các làng Thọ Xương và Châu Xuyên thuộc tổng Thọ Xương, phủ Lạng Giang được hợp lại thành làng Thọ Châu.
Ngày 11 tháng 2 năm 1939, Tổng sứ Bắc Kỳ ban hành Nghị định số 241 về việc thành lập tỉnh lỵ Bắc Giang trên cơ sở toàn bộ xã Thọ Châu.
Ngày 24 tháng 2 năm 1942, Tổng sứ Bắc Kỳ ban hành Nghị định số 5247A về việc thành lập thị xã Phủ Lạng Thương trên cơ sở toàn bộ xã Thọ Châu.
Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, Phủ Lạng Thương là một trong những địa phương sớm khởi nghĩa và giành chính quyền (ngày ngày 17 tháng 8 năm 1945).
Ngày 1 tháng 2 năm 1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 451-TTg[6] về việc tái lập thị xã Phủ Lạng Thương trực thuộc tỉnh Bắc Giang.[7]
Ngày 1 tháng 10 năm 1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 352-TTg[8] về việc:
Thị xã Bắc Giang có 12 tiểu khu.
Ngày 27 tháng 10 năm 1962, Quốc hội ban hành Nghị quyết[11] về việc thành lập tỉnh Hà Bắc trên cơ sở hợp nhất tỉnh Bắc Giang và tỉnh Bắc Ninh. Khi đó, thị xã Bắc Giang thuộc tỉnh Hà Bắc và là tỉnh lỵ của tỉnh Hà Bắc.
Ngày 14 tháng 3 năm 1963, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP[12] về việc sáp nhập xã Thọ Xương thuộc huyện Lạng Giang và các xóm Đa Mai, Thanh Mai của xã Song Mai thuộc huyện Việt Yên vào thị xã Bắc Giang quản lý.[13]
Ngày 22 tháng 4 năm 1964, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 127-NV[14] về việc thành lập xã Đa Mai trên cơ sở tách một phần đất xã Song Mai thuộc huyện Việt Yên.
Sau năm 1975, thành lập 5 khu hành chính trên cơ sở 12 tiểu khu.[10]
Ngày 1 tháng 6 năm 1981, UBND tỉnh Hà Bắc ban hành Quyết định số 390/QĐ-UBND[15] về việc:
Ngày 3 tháng 5 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 130-HĐBT[20] về việc:
Sau khi điều chỉnh địa giới, thị xã Bắc Giang có 5 phường Trần Phú, Lê Lợi, Ngô Quyền, Minh Khai, Nhà Máy Phân Đạm và 4 xã: Đa Mai, Thọ Xương, Song Mai, Dĩnh Kế.
Ngày 24 tháng 5 năm 1989, UBND tỉnh Hà Bắc ban hành Quyết định số 419/UB[22] về việc:
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 103-CP[23] về việc:
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị định[25] về việc chia tỉnh Hà Bắc thành tỉnh Bắc Giang và tỉnh Bắc Ninh. Khi đó, thị xã Bắc Giang trở lại là tỉnh lỵ của tỉnh Bắc Giang.
Ngày 11 tháng 5 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 33/1999/NĐ-CP[26] về việc:
Ngày 15 tháng 12 năm 2003, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 1683/QĐ-BXD[27] về việc công nhận thị xã Bắc Giang là đô thị loại III.[28]
Ngày 7 tháng 6 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 75/2005/NĐ-CP[1] về việc thành lập thành phố Bắc Giang thuộc tỉnh Bắc Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Bắc Giang.
Thành phố Bắc Giang có 3.221 ha diện tích tự nhiên và 126.810 nhân khẩu, có 11 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm 7 phường: Trần Phú, Ngô Quyền, Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ, Mỹ Độ, Trần Nguyên Hãn, Thọ Xương và 4 xã: Dĩnh Kế, Xương Giang, Đa Mai, Song Mai.
Ngày 27 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 36/NQ-CP[29] về việc chuyển xã Dĩnh Trì thuộc huyện Lạng Giang và 4 xã: Song Khê, Tân Mỹ, Tân Tiến, Đồng Sơn thuộc huyện Yên Dũng vào thành phố Bắc Giang quản lý.
Thành phố Bắc Giang có 6.644,82 ha diện tích tự nhiên và 145.249 nhân khẩu; có 16 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 7 phường: Hoàng Văn Thụ, Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn, Mỹ Độ, Trần Phú, Thọ Xương, Ngô Quyền và 9 xã: Dĩnh Kế, Xương Giang, Đa Mai, Song Mai, Tân Mỹ, Song Khê, Đồng Sơn, Tân Tiến, Dĩnh Trì.
Ngày 31 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 140/NQ-CP[30] về việc:
Thành phố Bắc Giang có 6.677,36 ha diện tích tự nhiên và 157.439 nhân khẩu; có 16 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 10 phường: Hoàng Văn Thụ, Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn, Mỹ Độ, Trần Phú, Thọ Xương, Ngô Quyền, Dĩnh Kế, Xương Giang, Đa Mai và các 6: Song Mai, Tân Mỹ, Song Khê, Đồng Sơn, Tân Tiến, Dĩnh Trì.
Ngày 3 tháng 12 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2168/QĐ-TTg[31] về việc công nhận thành phố Bắc Giang là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bắc Giang.
Ngày 31 tháng 7 năm 2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 728/QĐ-TTg[2] về việc công nhận đô thị Bắc Giang đạt tiêu chí đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bắc Giang.
Đô thị Bắc Giang bao gồm toàn bộ ranh giới hành chính thành phố Bắc Giang hiện hữu và huyện Yên Dũng hiện hữu với phạm vi 258,30 km² với 34 đơn vị hành chính cấp xã. Trong đó, khu vực nội thị dự kiến bao gồm toàn bộ 16 đơn vị hành chính cấp xã của thành phố Bắc Giang gồm 10 phường hiện hữu và 6 khu vực dự kiến thành lập phường gồm các xã: Dĩnh Trì, Tân Mỹ, Đồng Sơn, Tăng Tiến, Song Mai, Song Khê và 8 đơn vị hành chính cấp xã của huyện Yên Dũng gồm thị trấn Nham Biền, thị trấn Tân An dự kiến sáp nhập với xã Lão Hộ và các xã: Nội Hoàng, Tiền Phong, Tân Liễu.
Ngày 28 tháng 9 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1191/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2023 – 2025 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2025).[3] Theo đó:
Sau sáp nhập, thành phố Bắc Giang có diện tích tự nhiên 258,29 km² và quy mô dân số 371.151 người; có 21 phường và 10 xã như hiện nay.
Thành phố Bắc Giang nằm ở phía tây của tỉnh Bắc Giang, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 50 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý:
Đặc trưng khí hậu chịu ảnh hưởng của gió mùa, một năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4–10, mùa khô từ tháng 11–3. Nhiệt độ trung bình năm dao động từ 23,2 °C – 23,8 °C. Độ ẩm trung bình từ 83–84%. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.400 – 1.730 mm. Nhìn chung, các điều kiện tự nhiên của thành phố Bắc Giang thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài.
Thành phố Bắc Giang có 31 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 21 phường: Cảnh Thụy, Dĩnh Kế, Dĩnh Trì, Đa Mai, Đồng Sơn, Hoàng Văn Thụ, Hương Gián, Mỹ Độ, Ngô Quyền, Nham Biền, Nội Hoàng, Song Khê, Song Mai, Tân An, Tân Liễu, Tân Mỹ, Tân Tiến, Thọ Xương, Tiền Phong, Trần Phú, Xương Giang và 10 xã: Đồng Phúc, Đồng Việt, Đức Giang, Lãng Sơn, Quỳnh Sơn, Tiến Dũng, Trí Yên, Tư Mại, Xuân Phú, Yên Lư.
Thành phố Bắc Giang trước kia và nay được biết đến với vai trò là một trong những trung tâm lớn của vùng về công nghiệp đạm - hoá chất, công nghiệp may mặc, đồng thời là trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa từ Trung Quốc cho miền Bắc, cũng như là nơi tập kết các sản phẩm nội địa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Thành phố có 2 làng nghề truyền thống, một số cụm công nghiệp vừa và nhỏ gắn với hệ thống các khu, cụm công nghiệp lớn của tỉnh liền kề thành phố như: Quang Châu, Đình Trám, Vân Trung, Song Khê – Nội Hoàng,... đó những thuận lợi cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội và đô thị.
Biểu trưng công nghiệp của thành phố Bắc Giang là công trình Nhà máy Phân đạm Hà Bắc, là nhà máy phân đạm đầu tiên của Việt Nam
Năm 2013, thành phố Bắc Giang có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đạt 17,3%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Thương mại - dịch vụ chiếm 45,2%; Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp - Xây dựng 51,3%; Nông nghiệp - thủy sản 3,5%. Tổng thu ngân sách năm 2013 đạt 695 tỷ đồng, bằng 117% dự toán, bằng 106% so với năm trước. thu nhập bình quân đầu người đạt 59,80 triệu đồng/người. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,55%; số hộ thu nhập 4 triệu đồng/tháng đạt 82%.
Một số cụm công nghiệp đã được hình thành gắn với hệ thống các khu, cụm công nghiệp lớn của tỉnh liền kề, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, làm cơ sở để thúc đẩy công nghiệp của thành phố cũng như của tỉnh phát triển nhanh và vững chắc. Trên địa bàn thành phố đã hình thành nhiều ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đa dạng như chế biến nông lâm sản, cơ khí, hoá chất, dệt may, điện tử, sản xuất vật liệu xây dựng,... Hiện trên địa bàn có 2.110 cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động trong đó có 1.982 cơ sở sản xuất cá thể, tổ sản xuất; 11 cơ sở kinh tế tập thể; kinh tế hỗn hợp 105 cơ sở và 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thành phố hiện có 5 làng được công nhận là làng nghề, với các ngành nghề như: sản xuất bún, sản xuất mỳ gạo, làm bánh đa, nghề mộc,...
Thành phố Bắc Giang còn là địa danh nhiều người biết đến như là một trong những trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và ngược lại. Năm 2013 tổng giá trị xuất, nhập khẩu ước đạt 310 triệu USD, tăng 10% so với năm trước (xuất khẩu đạt 186 triệu USD, nhập khẩu đạt 124 triệu USD).
Mạng lưới thương mại - dịch vụ cũng đã được phát triển, đặc biệt tại các tuyến phố chính trong thành phố. Trong thời gian gần đây nhiều dãy phố đã được chuyên môn hoá ngành hàng kinh doanh.
Trên địa bàn thành phố hiện nay đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như: khu đô thị Kosy (phường Xương Giang), khu đô thị phía nam thành phố Bắc Giang, khu đô thị Tây Nam thành phố Bắc Giang,...
Điện: tính đến năm 2003, điện lưới của Việt Nam đã về tới 100% số xã, phường phục vụ cho 100% số hộ dùng điện lưới quốc gia với chất lượng khá.
Nước: chủ yếu lấy từ nhà máy nước của thành phố. Ngoài ra tại một số xã, người dân còn sử dụng nước sinh hoạt và sản xuất từ 6.158 giếng đào và 175 giếng khoan.
Thành phố Bắc Giang có diện tích 66,77 km², dân số năm 2019 là 174.229 người. Trong đó, dân số thành thị là 109.367 người chiếm 62,8% và dân số nông thôn là 64.862 người chiếm 37,2%,[33] mật độ dân số 2.609 người/km².
Thành phố Bắc Giang (hiện hữu) có diện tích 66,56 km²,[10] dân số quy đổi tính đến ngày 31/12/2023 là 194.171 người (trong đó: dân số thường trú là 191.411 người và dân số tạm trú quy đổi là 2.760 người),[4] mật độ dân số 2.917 người/km².
Thành phố Bắc Giang (mở rộng) có diện tích 258,29 km², dân số quy đổi tính đến ngày 31/12/2023 là 371.151 người,[10] mật độ dân số đạt 1.436 người/km².
Tiềm năng du lịch trên địa bàn thành phố bao gồm: 2 điểm du lịch tự nhiên và 42 di tích (14 di tích cấp quốc gia, 4 di tích cấp tỉnh) đều đã và đang được khai thác như: Hạ tầng 2 bờ đê Sông Thương; điểm du lịch Quảng Phúc; các di tích Chùa Kế, nghè Cả (xã Dĩnh Kế); khu lăng tướng công Lều Văn Minh, chùa Vẽ, đình Vẽ, chùa Thành, đình Thành,... và 34 lễ hội truyền thống (1 lễ hội cấp tỉnh) như: lễ hội kỷ niệm chiến thắng Xương Giang; hội chùa Vẽ (phường Thọ Xương), chùa Hồng Phúc (phường Trần Nguyên Hãn), chùa Dền (phường Lê Lợi),... Một số lễ hội và làng nghề truyền thống (bún Đa Mai, bánh đa Kế) được duy trì thường xuyên, có ý nghĩa dân gian và kinh tế đang từng bước hấp dẫn du khách.
Đây là một vùng đất cổ có bề dày về lịch sử văn hoá và truyền thống khoa bảng. Huyện Yên Dũng (nay là thành phố Bắc Giang) là một vùng đất thiêng với huyền thoại 99 con chim phượng hoàng hốt cấu tạo nên dãy Nham Biền; có Chùa Vĩnh Nghiêm (xã Trí Yên) gắn liền với thiền phái Trúc lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập từ thế kỷ XIII, chùa được coi là trường đại học Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam. Yên Dũng cũng nơi sinh ra hai cha con tiến sĩ Đào Toàn Mân và Trạng nguyên Đào Sư Tích (xã Song Khê).
Các làng nghề xưa, nghề phụ trong huyện Yên Dũng:
Với vị trí rất thuận lợi về giao thông, cách thủ đô Hà Nội 50 km về phía Đông Bắc, ở vị trí trung lộ trên tuyến giao thông huyết mạch (đường bộ, đường sắt liên vận quốc tế) nối Thủ đô Hà Nội với thành phố Lạng Sơn và cửa khẩu quốc tế Đồng Đăng; ở vào vị trí đầu mối giao thông cấp liên vùng quan trọng: nằm cận kề vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có hệ thống đường bộ gồm các Quốc lộ 1 cũ và mới, 31, 37, tỉnh lộ 398; các tuyến đường sắt: Hà Nội – Lạng Sơn, Hà Nội – Kép – Hạ Long, Hà Nội – Kép – Thái Nguyên chạy qua; có tuyến đường sông nối thành phố với các trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch lớn như Phả Lại, Côn Sơn – Kiếp Bạc, Yên Tử, Hải Phòng; tiếp cận thuận lợi với cảng hàng không quốc tế Nội Bài, cảng nội địa Gia Lâm, cảng nước sâu Cái Lân, cảng Hải Phòng và các cửa khẩu quốc tế trên biên giới Lạng Sơn.
Giao thông toàn thành phố có 104 km đường bộ, trong đó có 11 km đường quốc lộ, 10 km đường liên tỉnh, 20 km đường nội thị, 63 km đường xã. Ngoài ra còn có gần 80 km đường thôn xóm xe cơ giới đi được và có đường cao tốc Hà Nội – Bắc Giang, đường cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn đi qua ở phía nam thành phố. Hàng năm cứng hoá thêm mặt đường bằng bê tông nhựa và bê tông xi măng được 25%. Đường sắt chạy qua 5 km với Ga Bắc Giang. Đường sông chảy qua 4 km tạo thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá.
Hà Giang là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Hà Giang, Việt Nam.[3][4]
Thành phố Hà Giang là trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh Hà Giang, nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh, cách cửa khẩu Thanh Thủy trên biên giới Việt Nam - Trung Quốc 23 km và cách Hà Nội 318 km, có vị trí địa lý:
Thành phố Hà Giang có 8 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 5 phường: Minh Khai, Ngọc Hà, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Trần Phú và 3 xã: Ngọc Đường, Phương Độ, Phương Thiện.
Năm 1904, thành lập thị xã Hà Giang.
Ngày 22 tháng 7 năm 1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 317-CP[6]. Theo đó, giải thể xã An Cư và tái lập thị xã Hà Giang. Về mặt hành chính, thì thị xã Hà Giang được phân chia thành 4 tiểu khu: Yên Biên, Minh Khai, Đoàn Kết, Việt Trung.
Năm 1975, Hà Giang được sáp nhập với tỉnh Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên. Ban đầu, thì tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tuyên được đặt tại thị xã Hà Giang và đến năm 1979, tỉnh lỵ được di chuyển về thị xã Tuyên Quang (nay là thành phố Tuyên Quang) .
Ngày 9 tháng 5 năm 1981, UBND tỉnh Hà Tuyên ban hành Quyết định 213/QĐ-UB[7] về việc thành lập phường Trần Phú trên cơ sở tiểu khu Yên Biên và tiểu khu Minh Khai.
Lúc này, thị xã Hà Giang có 3 phường: Trần Phú, Đoàn Kết và Việt Trung.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, Quốc hội ban hành Nghị quyết[8] về việc tái lập tỉnh Hà Giang từ tỉnh Hà Tuyên. Thị xã Hà Giang trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Hà Giang.
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 112-CP[9]. Theo đó, chia phường Trần Phú thành 2 phường: Trần Phú và Minh Khai.
Ngày 20 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/1999/NĐ-CP[10] về việc thành lập xã Kim Linh trên cơ sở 3.590 ha diện tích tự nhiên và 2.064 nhân khẩu của xã Kim Thạch.
Ngày 9 tháng 8 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 104/2005/NĐ-CP[11] về việc:
Ngày 23 tháng 6 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2006/NĐ-CP[12] về việc:
Ngày 26 tháng 6 năm 2009, Bộ Xây Dựng ban hành Quyết định số 699/QĐ-BXD[13]về việc thị xã Hà Giang được Bộ Xây dựng công nhận là thị xã Hà Giang đạt tiêu chuẩn đô thị loại III trực thuộc tỉnh Hà Giang.
Ngày 27 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP[14] về việc thành lập thành phố Hà Giang thuộc tỉnh Hà Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Giang.
Thành phố Hà Giang có diện tích tự nhiên 13.531,93 ha và 71.689 nhân khẩu, gồm có 8 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 5 phường: Trần Phú, Minh Khai, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Ngọc Hà và 3 xã: Ngọc Đường, Phương Thiện, Phương Độ.
Khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn (55%) trong giá trị sản lượng của thành phố Hà Giang, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 20,2% (năm 2003 [15]). GDP đầu người là 1.400 USD.
Thành phố Hà Giang có 22 sắc tộc khác nhau[16], trong đó người Kinh chiếm 55,7% và người Tày chiếm 22%.
Thành phố có dân số năm 2013 là 52.135 người. Trong đó, dân số thành thị là 39.700 và dân số nông thôn 12.435 người.[17]
Thành phố có dân số năm 2014 là 53.097 người. Trong đó, dân số thành thị là 40.411 và dân số nông thôn 12.686 người.[17]
Thành phố có dân số năm 2015 là 54.240 người. Trong đó, dân số thành thị là 41.279 người và dân số nông thôn 12.961 người.[17]
Thành phố có dân số năm 2016 là 55.360 người. Trong đó, dân số thành thị là 42.170 người và dân số nông thôn là 13.190 người.[17]
Thành phố có diện tích 133,46 km² (13.345,90 ha), dân số năm 2017 là 56.426 người. Trong đó, dân số thành thị là 42.977 người và dân số nông thôn là 13.448 người. Mật độ dân số đạt 423 người/km².[17]
Thành phố có diện tích 133,46 km² (13.345,90 ha), dân số năm 2018 là 56.421 người. Trong đó, dân số thành thị là 43.824 người và dân số nông thôn là 13.597 người. Mật độ dân số đạt 430 người/km².[18]
Thành phố Hà Giang có diện tích 133,46 km², dân số ngày 1/4/2019 là 55.559 người. Trong đó, dân số thành thị là 42.962 người (77%), dân số nông thôn là 12.597 người (23%). Mật độ dân số đạt 416 người/km².[19]
Thành phố có diện tích 133,46 km² (13.345,90 ha), dân số ngày 31/12/2019 là 55.644 người. Trong đó, dân số thành thị là 42.978 người và dân số nông thôn là 12.666 người. Mật độ dân số đạt 430 người/km².[20]
Thành phố có diện tích 133,46 km² (13.345,86 ha), dân số năm 2020 là 56.485 người. Trong đó, dân số thành thị là 43.699 người và dân số nông thôn là 12.786 người. Mật độ dân số đạt 423 người/km².[21]
Thành phố có diện tích 133,46 km² (13.345,86 ha), dân số năm 2021 là 57.465 người. Trong đó, dân số thành thị là 44.462 người và dân số nông thôn là 13.003 người. Mật độ dân số đạt 431 người/km².[22]
Thành phố có diện tích 133,46 km² (13.345,86 ha), dân số năm 2022 là 58.408 người. Trong đó dân số thành thị là 45.161 người và dân số nông thôn là 13.247 người. Mật độ dân số đạt 438 người/km².[1]
Hà Giang không chỉ có những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp mà thành phố Hà Giang cũng là địa điểm du lịch hấp dẫn du khách. Vậy thành phố hà giang có gì vui chơi ? Hãy cùng LEAD TRAVEL khám phá các địa điểm du lịch hấp dẫn tại thành phố Hà Giang qua bài chia sẻ dưới đây nhé!